Thứ Sáu, tháng 12 29, 2006

3. LÊ TIẾN CÔNG -- TÌM HIỂU VỀ NHÂN VẬT LỊCH SỬ NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824 - 1886) / tệp 1

LÊ TIẾN CÔNG
Luận văn cử nhân sử học
Đại học Khoa học Huế
Khoá 1998 - 2002
Năm bảo vệ luận văn: 2002

Giảng viên hướng dẫn:
1. PGS. TS. Đỗ Bang
2. Thạc sĩ Nguyễn Quang Trung Tiến


Đề tài luận văn:


TÌM HIỂU NHÂN VẬT LỊCH SỬ
NGUYỄN VĂN TƯỜNG
(1824 – 1886)


Vài lời của TXA.

Đây là nguyên văn bản luận văn được Lê Tiến Công bảo vệ thành công vào mùa hè 2002 để nhận bằng cử nhân sử học tại Đại học Khoa học Huế, chưa được anh chỉnh sửa các lỗi gõ phím vi tính.

Tôi được sự uỷ nhiệm của Lê Tiến Công, một nghiên cứu sinh vừa trình luận án thạc sĩ (2006), để “biên tập” lại các lỗi nói trên, viết một đôi lời gọi là “phản biện”. Nhưng trước mắt tôi cứ để nguyên vẹn như nguyên bản vốn có (bản nhận lần thứ hai, 18-11 HB6 [2006]). Tôi có ý định sẽ đối chiếu lại với bản trước đây, nhận vào ngày 16-3 HB5 (2005), năm ngoái, và cùng lúc sẽ “biên tập” lỗi gõ phím; sau đó mới có thể phản biện đôi điều.

Xin vui lòng xem lại "Vài lời...” ở khung trang trước.

Trân trọng giới thiệu với người đọc.

TXA.
Tối thứ sáu (thứ bảy cũ), ngày 18-11 HB6 (2006)
tại TP. HCM.



MỤC LỤC LUẬN VĂN

A. PHẦN MỞ ĐẦU

I. Mục đích, ý nghĩa, lý do chọn đề tài
II. Lịch sử nghiên cứu [đề tài - bt.] và nguồn tư liệu nghiên cứu
III. Giới hạn vấn đề nghiên cứu
IV. Phương pháp nghiên cứu
V. Nội dung tổng quát (xem các tiểu mục: B. Phần nội dung):
- Chương 1
- Chương 2
- Chương 3
VI. Những thuận lợi, khó khăn và đóng góp của đề tài

B. PHẦN NỘI DUNG

I. Chương 1

BỐI CẢNH XÃ HỘI VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA GIA THẾ, QUÊ HƯƠNG QUẢNG TRỊ ĐỐI VỚI NGUYỄN VĂN TƯỜNG

1.1. Thực dân Pháp chuẩn bị và tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam
1.2. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
1.3. Ảnh hưởng của gia thế và quê hương Quảng Trị đến con người Nguyễn Văn Tường

II. Chương 2

CON ĐƯỜNG LÀM QUAN CỦA NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1850-1885)

2.1. Từ quan huấn đạo đến phủ doãn Thừa Thiên (1850-1866)
2.2. Thời gian từ 1866 - 1874
(Từ sau khởi nghĩa Đoàn Hữu Trưng đến hòa ước Giáp tuất 1874)
2.3. Từ thời điểm giải quyết vụ J. Dupuis đến lúc Tự Đức mất (1873 - 19/7/1883)
2.4. Nguyễn Văn Tường từ 19 / 7 / 1883 đến 5 / 7 / 1885
2.4.1. Phụ chính Nguyễn Văn Tường với việc phế lập trong triều đình Huế
2.4.2. Chuẩn bị cho cuộc kháng Pháp
2.4.3. Nguyễn Văn Tường và vụ biến kinh thành Huế 5 / 7 / 1885

2.5. Nguyễn Văn Tường từ sau ngày 5 / 7 / 1885: những ngày tháng cuối cùng.
2.5.1. Nguyễn Văn Tường và hai tháng ở Huế (5/7 đến 6/9/1885)
2.5.2. Những ngày tháng cuối đời (5 / 9 / 1885 – 30 / 7 / 1886)


III. Chương 3

NHẬN DIỆN NGUYỄN VĂN TƯỜNG
TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC THẾ KỶ XIX

3.1. Nguyễn Văn Tường trước ngày 5 / 7 / 1885
3.2. Nguyễn Văn Tường từ sau ngày kinh đô thất thủ 5 / 7 / 1885 - Ngàn năm công – tội.

C. PHẦN KẾT LUẬN

&

- NIÊN BIỂU NGUYỄN VĂN TƯỜNG
- TÀI LIỆU THAM KHẢO
- NHÂN CHỨNG [VỀ QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU - bt.] ĐIỀN DÃ
(Các hậu duệ Nguyễn Văn Tường)


NỘI DUNG LUẬN VĂN

A. Phần mở đầu

I. Mục đích, ý nghĩa, lý do chọn đề tài:


Nguyễn Văn Tường (1824 - 1886) là một trong những nhân vật lịch sử đặc biệt trong khúc quanh lịch sử dân tộc nửa sau thể kỷ XIX. Tính chất phức tạp trước các vấn đề lớn của lịch sử: sự nhòm ngó tiến tới xâm lược của thức dân Pháp, phong trào kháng Pháp của nhân dân, sự phân hóa trong triều đình Huế với sự đấu tranh về tư tưởng chính trị: Nên chiến hay nên hòa? Chiến thì nên như thế nào? Hòa thì nên như thế nào để giữ được độc lập?... Tất cả đã tạo nên một “ma trận” mà nếu không được nhận thực đúng đắn sẽ không tìm đến được cái đích khoa học đúng nghĩa.

Nguyễn Văn Tường sinh ra và làm quan trong một giai đoạn lịch sử như thế, lẽ dĩ nhiên ông là sản phẩm của cả một thời kỳ, ở đó tính chất phức tạp đến rối rắm đã để lại những “khúc xạ” mà người đương thời tới hậu thế chúng ta vẫn còn nhiều băn khoăn trong nhận thức về ông.

Cuộc đời và công nghiệp của Nguyễn Văn Tường cần phải được nhận thức đầy đủ, mổ xẻ để giải quyết những thắc mắc cũng như các “điểm gút” về nhân vật để từ đó đi đến nhận thức đúng đắn, khách quan và khoa học về ông. Với ý nghĩa đầy đủ ấy, thiết nghĩ nghiên cứu toàn diện về Nguyễn Văn Tường trong thời điểm hiện nay là điều cần thiết.

II. Lịch sử nghiên cứu [đề tài - bt.] và nguồn tư liệu nghiên cứu:

II.1. Tác giả người Việt:

Tác phẩm đầu tiên phải nhắc tới là “Vè Thất thủ kinh đô” của một tác giả bình dân đương thời. Ở bài vè này, người đọc dễ dàng nhận thấy Nguyễn Văn Tường luôn nói đến chữ hòa, chữ bại, là một người “tâm xà khẩu phật”, gian xảo, lật lọng, phản dân hại nước.

Một tác phẩm đương thời khác là “Hạnh Thục ca” của Nguyễn Nhược Thị. Ở tác phẩm văn vần này Nguyễn Văn Tường được xem là kẻ “quên lời sách xưa”, “vì thân”, “chẳng giữ đạo trung”, “quyền thần sâu hiểm”…

“Làm cho rõ mặt uy quyền
Hẳn tình hiếp chế không kiêng đã rồi”
[64, 26].

Muộn hơn, sử gia Trần Trọng Kim xem Nguyễn Văn Tường là một nhà chính trị, nhà ngoại giao khéo léo, đa mưu: “thật là một người có tài, giỏi nghề giao thiệp nhưng có tính tham lam và lại tàn nhẫn” [29, 319].

”GS. Trần Văn Giàu nhận định: “Tường đi nước đôi, gặp cơ hội thì xoay trở” [21, 320] và “Nguyễn Văn Tường là một nhà ngoại giao khéo léo, mềm mỏng, ngọt dịu, thường thấu tâm trạng của chính khách, cũng là kẻ mưu sâu và cũng biết giấu kín mưu sâu, thâm tâm xảo quyệt, có ý nuôi dưỡng bộ đội chỉ là để bảo tồn một số quyền hành nội trị của triều đình mà thôi chứ không có quyết tâm khôi phục chủ quyền của đất nước” [21, 61].

Hai tác giả Hoàng Văn Lân và Ngô Thị Chính trong cuốn “Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến cuối thế kỷ XIX” xem Nguyễn Văn Tường là tên “phản phúc” [35, 102]. Với việc Tường ở lại Huế: “Ngay từ giờ phút này đã đánh dấu thêm một bước chuyển biến ngay trong phái chủ chiến, đó là sự phân hóa cuối cùng dẫn đến sự tan rã hoàn toàn của phe ấy. Tiến trình các sự kiện lịch sử cùng một lúc diễn ra ở Huế và Quảng Trị lúc bấy giờ chứng minh điều đó” [35, 104]. Như vậy, ở đây, Nguyễn Văn Tường là đại diện tiêu biểu cho sự chuyển hướng tư tưởng của những người không có lập trường vững vàng.

Các công trình nghiên cứu về lịch sử Việt Nam cận đại đều có “đậm nhạt” nhắc đến Nguyễn Văn Tường nhưng nhìn chung những nhận định, đánh giá trên những tài liệu mà người ta đã biết đến.

Năm 1996, lần đầu tiên tại trường ĐHSP. Tp. HCM. một hội thảo khoa Học mang tên “Nhóm chủ chiến trong triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường” được mạnh dạn tổ chức với quy mô khá lớn, thu hút đông đảo các nhà nghiên cứu tên tuổi tham gia. Hội thảo nhằm mục đích thông báo thảo luận và ghi nhận những tri thức mới về Nguyễn Văn Tường.

Các nhà nghiên cứu đã đi xa hơn một bước trong việc nghiên cứu, tìm hiểu các uẩn khúc, các giai đoạn đặc biệt. Với việc khai thác nguồn tư liệu mới: Thơ văn (Trần Đại Vinh, Vũ Đức Sao Biển), châu bản (Trần Viết Ngạc), tư liệu hồi cố (Tôn Thất Hào), thực sự đưa đến những thông tin mới làm phong phú thêm cơ sở khoa học để nhận thức về Nguyễn Văn Tường. Tác giả Nguyễn Hữu Thông, Nguyễn Quang Trung Tíến gọi những ngày sau 5 / 7 / 1885 là “Những năm tháng đáng quên của Nguyễn Văn Tường”. Trái ngược, tác giả Đặng Thị Tịnh lại kêu gọi “Sự công bằng của sử học” đối với Nguyễn Văn Tường. Nhìn chung, hội nghị ghi nhận Nguyễn Văn Tường là người có tài, và hành động trong thời kỳ “tứ nguyệt tam vương” là hành động đáng được tôn vinh. Riêng về hoạt động sau ngày thất thủ kinh đô còn có những ý kiến khác nhau và còn phải được tiếp tục nghiên cứu để làm sáng tỏ.

II.2. Các tác giả ngoại quốc:

Các học giả nước ngoài đi đầu trong việc nghiên cứu giai đoạn lịch sử cuối thế kỷ XIX ở Việt Nam chính là người Pháp. Họ là những nhà chính trị, giáo sĩ hay sĩ quan đã từng có mặt ở Việt Nam đương thời hoặc muộn hơn. Các tác phẩm của họ có “đậm nhạt” đề cập đến Nguyễn Văn Tường hoặc các vấn đề liên quan. Tiêu biểu có A. Delvaux với hai tác phẩm “Phái bộ Pháp ở Huế và những phái viên đầu tiên”, “Cái chết của Nguyễn Văn Tường, cựu nhiếp chính của An Nam” (La mort de Nguyen Van Tuong ancien régent de Annam) và Gosselin với tác phẩm “Vương quốc An Nam” (L’Empire d’Annam )... Những tác phẩm ấy thực sự cung cấp cho chúng ta những thông tin quý giá.

Một học giả Nhật Bản quen thuộc với giới nghiên cứu Vịệt Nam là Y. Tsuboi. Trong cuốn sách “Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa”, với nguồn tư liệu mới, ông đã đưa ra nhận định sắc sảo: “Ông [Nguyễn Văn Tường - LTC. chua thêm] đã cung cấp cho chúng ta một gương mẫu tiêu biểu về một “chính khách - quan lại” theo kiểu Việt Nam: thông minh, có văn hóa, kiên nhẫn, bình tĩnh, vừa khéo léo thương nghị hoặc gây mưu đồ ở hành lang, vừa biết vâng phục nhà vua hoặc lẫn trốn trách nhiệm" [71, 308].

Qua sự trình bày sơ lược trên đây [II.1 & II.2 - bt.], chúng ta có thể hình dung được bước phát triển trong quá trình nghiên cứu đánh giá Nguyễn Văn Tường. Ở mỗi tác giả, trong mỗi thời kỳ có cách đánh giá khác nhau hoặc giống nhau, có khi là đối lập nhau. Với nguồn tư liệu ngày càng được bổ sung, đối chiếu, việc đánh giá ngày càng được dựa trên các căn cứ khoa học. Cho nên việc nhận thức vấn đề cũng ít để lại những hoài nghi khoa học. Tuy nhiên ai trong chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy tính không thống nhất, các khoảng trống còn bỏ ngỏ (!). Để rồi đặt câu hỏi: Vì sao lại như vậy? Thực tế lịch sử là gì? Tất cả cần phải có lời giải đáp thỏa đáng và khoa học.

III. Giới hạn vấn đề nghiên cứu:

Việc nghiên cứu về Nguyễn Văn Tường không phải là hoàn toàn mới. Tuy nhiên các tác giả đi trước đã bị “đổ dồn” vào giai đoạn sau để đánh giá nhân vật lịch sử này. Thiết nghĩ, đó là những đóng góp quan trọng; tuy nhiên những hoạt động, đóng góp của Nguyễn Văn Tường qua sự nghiệp quan trường cũng đáng được nghiên cứu và ghi nhận. Với suy nghĩ nghiên cứu đầy đủ cuộc đời và công nghiệp của Nguyễn Văn Tường, chúng tôi sẽ nghiên cứu nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường trong bối cảnh lịch sử dân tộc nửa sau thế kỷ XIX, cũng như trong mối tương quan giữa con người với con người trong bối cảnh ấy để thấy được tính logic khách quan cũng như diễn trình tư tưởng của Nguyễn Văn Tường. Cố nhiên, trong khi nghiên cứu chúng tôi sẽ dừng lại đi sâu vào các thời điểm, các vấn đề được xem là mấu chốt trên cơ sở các tài liệu có được để góp phần giải quyết các điểm “đóng - mở” về nhân vật lịch sử này.

IV. Phương pháp nghiên cứu: (LTC. lược bớt)

Lịch sử Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX là một giai đoạn đầy biến động phức tạp. Trong bối cảnh như vậy, đánh giá một nhân vật với tư cách là sản phẩm của một thời kỳ lịch sử không phải là vấn đề giản đơn. Trên cơ sở những cứ liệu khoa học, đặt nhân vật vào hoàn cảnh lịch sử và xem xét với những điều đã làm được và chưa làm được so với yêu cầu của quốc gia dân tộc nửa cuối thế kỷ XIX, để từ đó đưa đến nhận định đánh giá về nhân vật, chính là phương pháp luận cơ bản để nghiên cứu về con người Nguyễn Văn Tường.

V. Nội dung tổng quát (xem các tiểu mục: B. Phần nội dung).

VI. Những thuận lợi, khó khăn và đóng góp của đề tài:
(LTC. lược bớt)


Tháng 5 – 2005
Lê Tiến Công.




Chương 1

BỐI CẢNH XÃ HỘI VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA GIA THẾ, QUÊ HƯƠNG QUẢNG TRỊ ĐỐI VỚI NGUYỄN VĂN TƯỜNG

1.1. Thực dân Pháp chuẩn bị và tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam


Châu Á bước vào thời cận đại như một vùng nông thôn rộng lớn, lạc hậu, nghèo nàn. Một thời kỳ huy hoàng của văn minh phương Đông như bị lùi vào dĩ vãng. Lần lượt các nước châu Á (trừ Thái Lan và Nhật Bản) bị phương Tây xâm lược và nô dịch. Thế giới đã bước vào thời cận đại với quy luật lịch sử: “Giai cấp tư sản bắt nông thôn phải phục tùng thành thị... Những nước dã man hay nửa dã man phụ thuộc vào các nước văn minh, nó đã bắt dân tộc nông dân phải phụ thuộc vào dân tộc tư sản, bắt phương Đông phải phụ thuộc vào phương Tây” [42, 33]. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật lịch sử đó.

Thực dân Pháp nhòm ngó Việt Nam từ rất sớm, chúng bộc lộ ý đồ từ việc giúp đỡ Nguyễn Ánh để đánh Tây Sơn, và thành công đầu tiên là những người Pháp đã làm quan dưới triều vua Gia Long cũng như mối quan hệ giữa triều đình Huế với người Pháp.

Ngay từ buổi đầu nhòm ngó Việt Nam, thực dân Pháp đã lợi dụng triệt để “Hội truyền giáo nước ngoài [tại Paris - bt.]”. Các giáo sĩ và thương nhân Pháp đã phối hợp chặt chẽ với nhau. Giáo sĩ đi trước mở đường, thương nhân theo sau, rồi cùng nhau hoạt động. Bonaparte đã không giấu giếm ý đồ đó: “Tôi sẽ cử các giáo sĩ đi điều tra tình hình ở các xứ, tấm áo của họ sẽ che chở cho họ và sẽ dùng dể che giấu những mưu đồ chính trị và thương nghiệp” [33, 6]. Tuy nhiên, những khó khăn về chính tri, tinh hình châu Âu ngày càng chuyển biến bất lợi cho Pháp nên việc xâm lược Việt Nam vẫn chưa có điều kiện thực hiện.

Đến thời Minh Mạng (1820 - 1840), trước nỗi âu lo thường trực về sự đe dọa của phương Tây, Minh Mạng đã thực hiện một bước dứt khoát trong chủ trương bài ngoại, trong đó việc cấm đạo được đẩy lên một bước cực kỳ cứng rắn. Hàng loạt đạo dụ được ban ra, các nhà thờ bị phá hủy, "Kinh thánh" bị đốt, dân chúng bị cấm theo đạo, buộc phải bỏ đạo. Các giáo sĩ bị khủng bố, giam cầm và giết hại.

Chính sách “cấm đạo” có giảm dưới thời Thiệu Trị nhưng đến thời Tự Đức lại được đẩy mạnh một cách không phân biệt... Điều đó đã đẩy những người theo đạo đứng trước hai sự lựa chọn “hoặc chịu chết không thể kêu oan vào đâu hoặc phải theo giặc xâm lăng để đánh lại nước nhà mình” [19, 362]. Các biện pháp cấm đạo “chứng tỏ triều đình Huế đang ở trong thế yếu chứ không phải trong thế mạnh, đang hoảng sợ chứ không phải bình tĩnh, đang thua chứ không phải đang thắng” [19, 362]. Y. Tsuboi đã tổng kết:

“Chính quyền Tự Đức một lần nữa tin chắc rằng giáo dân đã có nhúng tay trong cuộc âm mưu này nên đã bắt đầu ra lệnh bắt giam các thừa sai. Hội thừa sai Paris nắm lấy cái cớ là các cuộc bách hại để thuyết phục chính phủ Pháp dùng vũ lực can thiệp vào Việt Nam. Napoléon đệ tam thấy đây là cơ hội thiết lập sự có mặt của người Pháp ở Viễn Đông. Các tàu chiến Pháp đã tấn công Đà Nẵng ngày 01 / 9 / 1857.

Vậy đối với người Pháp, trước hết đã có các chỉ dụ về việc bách hại đạo, rồi quân đội được phái đến để cứu giáo dân sau. Cách giải quyết này sâu đậm đến độ người ta còn coi là một thuyết chính đáng”
[71, 297].

Tóm lại, âm mưu xâm lược của thực dân Pháp được nảy sinh từ rất sớm nhưng mãi đến tháng 9 / 1858 với những điều kiện thuận lợi chúng mới chính thức nổ súng xâm lược. Bắt đầu từ các giáo sĩ thừa sai với mục tiêu "Phúc âm hóa" đất nước Việt Nam và với mức độ nào đó, dù vô tình hay hữu ý, những thông tin hoạt động của họ được chính phủ thực dân lợi dụng triệt để để tiến hành cuộc xâm lược Việt Nam. “Sự tự do hành đạo Thiên Chúa ở Việt Nam từ đó trở thành kiểu tranh chấp quan trọng nhất, cho phép liên kết các vấn đề liên quan đến quan hệ Pháp, Tây Ban Nha và Việt Nam với những khó khăn về nội trị - âm mưu chính trị, rối loạn xã hội -, và nó [còn - bt.] cung cấp cái cớ cho sự can thiệp quân sự của chính phủ Pháp” [71, 200]. Về mối quan hệ giữa giáo sĩ, thương nhân và thực dân, giáo sư Trần Văn Giàu dẫn lời Nguyễn Tử Lộc kết luận: “Cái bi đát sẽ mang lại quyền lợi cho Công giáo là sự truyền đạo trùng hợp với sự xâm lăng của Tây phương vào đất nước ta, các cố đạo Tây vào đất nước ta cùng với nhà buôn đi tìm thị trường ở xứ này. Sự can thiệp vũ trang vào đất ta dẫn đến sự đô hộ chính thức căn cứ vào nguyên do cấm đạo. Giới thừa sai lợi dụng các nhà buôn và quân đội xâm lăng để truyền đạo hay các nhà buôn lợi dụng đạo để mở đường cho xâm lấn. Theo những sự kiện lịch sử đã trình bày thì đó là hai mặt của phong trào thực dân, hai khía cạnh, khía cạnh ý thức hệ và khía cạnh kinh tế của sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Khi người Pháp đã lập được nền đô hộ trên đất nước ta, đạo được tự do bành trướng với tất cả sự dễ dãi và nâng đỡ của thực dân" [19, 379].

1.2. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược

Ngày 01 / 9 /1858 liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng tấn công vào Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Mục tiêu của quân Pháp khi tấn công Đà Nẵng là “đánh nhanh thắng nhanh”, đánh xong Đà Nẵng để làm “bàn đạp” tấn công ra Huế buộc triều đình Huế phải khuất phục. Tuy vậy chúng đã gặp sự kháng cự quyết liệt của quân và dân ta ở Đà Nẵng do Nguyễn Tri Phương chỉ huy. Sau một thời gian không thành, chúng chuyển vào Nam. Ngày 17 / 02 / 1859, chúng chiếm được Gia Định. Nguyễn Tri Phương được cử vào tổ chức phòng ngự ở đây nhưng ông không có tư tưởng tiến công quân địch, trong lúc đó, phía Pháp cũng không có điều kiện về lực lượng để có thể mở rộng chiến tranh. “Khi quân đội bên này không thể áp đảo bên kia được thì phải tìm một giải pháp chính trị, người Pháp biết rõ như thế và bằng cách sai một nhân viên mật vụ Charles Duval đến Bắc Kỳ với sứ mệnh xúi giục một cuộc nổi loạn chống chính quyền, liên kết với giáo dân. Đó là cuộc nổi loạn do Lê Duy Phụng chỉ huy, họ hướng triều đình Huế đến cuộc đình chiến Nam Kỳ” [71, 298]. Sau khi dàn xếp tạm ổn việc ở Trung Quốc, Pháp mới mở đợt tấn công lớn, chiếm được ba tỉnh miền Đông và một tỉnh miền Tây Nam Kỳ (Vĩnh Long). Tuy quân đội triều đình thất bại song phong trào kháng Pháp của nhân dân Nam Bộ lại dâng cao ở các quận huyện mà tiêu biểu là nghĩa quân do Trương Định chỉ huy. Tình hình đó đã gây cho địch nhiều hoang mang lo sợ. Nhưng cũng chính lúc đó triều đình Huế lại ký với Pháp hiệp ước 5 / 6 / 1862, cắt 3 tỉnh Miền Đông và Côn Lôn cho Pháp cùng với những nhượng bộ nặng nề khác. Mục đích của triều Huế là để rảnh tay đối phó với cuộc nổi dậy ở Bắc Kỳ. Trong suy tính của triều đình, nước ta sẽ lấy lại được ba tỉnh miền Đông một khi đã giải quyết xong việc Bắc Kỳ. Như vậy, có thể nói, triều đình Huế sợ nhân dân hơn sợ giặc. Vì vậy đã tạo điều kiện về thời gian hòa hoãn cho quân Pháp củng cố lực lượng, tiếp tục âm mưu xâm lược nốt ba tỉnh miền Tây. Đến 6 / 1867, thực dân Pháp chỉ mất 5 ngày để thực hiện xong mục tiêu đó mà không tốn một viên đạn, một tên lính nào. Nhưng ngay sau đó, phong trào kháng Pháp của nhân dân lại tiếp tục dâng cao, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Phan Tam - Phan Ngũ, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân... Phong trào kháng Pháp lan rộng khắp Nam Kỳ, khiến cho kẻ thù khiếp sợ. Nhưng cuối cùng, do triều đình Huế cố tình bỏ rơi, tìm cách ngăn cản, thậm chí tiếp tay cho giặc Pháp đàn áp phong trào, vì vậy các cuộc khởi nghĩa lần lượt thất bại.

Tháng 8 / 1873, Jean Dupuis gây hấn ở Bắc Kỳ, triều đình Huế yêu cầu Pháp ra giải quyết vụ việc. Nhân cơ hội này, ngày 11 / 10 / 1873, Dupré, thống đốc Nam Kỳ, phái thiếu tá hải quân Garnier mang 180 quân ra Bắc trên danh nghĩa dàn xếp công việc nhưng thực chất là kiếm cớ để can thiệp sâu vào Bắc Kỳ. Vừa đến Hà Nội, Garnier đã tỏ rõ âm mưu của chúng, đòi Nguyễn Tri Phương phải nộp thành nhưng bị cự tuyệt.

Ngày 20 / 11 / 1873, sau khi được viện trợ, quân số tăng lên 300 quân, hai tàu chiến và 11 khẩu đại bác, Garnier hạ lệnh tấn công và chiếm được thành Hà Nội. Sau đó, Pháp mở rộng đánh chiếm các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định.

Ngay từ đầu cuộc đánh chiếm, thực dân Pháp đã vấp phải sức kháng cự quyết liệt của quân và dân Bắc Kỳ. Tiêu biểu là trận đánh ở Cầu Giấy, ngày 21 / 12 / 1873, [quân Cờ Đen dưới quyền tổng chỉ huy của Hoàng Tá Viêm và Tôn Thất Thuyết - bt.], đã tiêu diệt được [một số - bt.] binh sĩ Pháp, Garnier cũng bị tử trận. Sau chiến thắng Cầu Giấy làm cho địch hết sức hoang mang lo sợ, tinh thần kháng Pháp của quân, dân Miền Bắc được nâng cao. Nhưng cũng chính lúc ấy, triều đình Huế lại muốn thương thuyết với kẻ thù và đã ra lệnh cho quân, dân Bắc Kỳ ngừng ngay các cuộc tấn công. Kết quả là hiệp ước 15 / 3 / 1874 ra đời, giữa Lê Tuấn, Nguyễn Văn Tường và tướng Pháp Dupré, đánh dấu một bước mới trong quá trình đầu hàng thỏa hiệp của triều Nguyễn.

Không thỏa mãn với vùng đất Nam Kỳ đã chiếm được, đến 3 / 1882, với điều kiện về sức mạnh chính trị, quân sự đã được chuẩn bị chu đáo, đại tá Henry Rivière mang 400 quân cùng hai pháo thuyền ra Bắc giở trò khiêu khích. Nhận thấy nguy cơ Pháp tấn công, Hoàng Diệu một mặt tổ chức phòng thủ, một mặt kêu gọi thêm viện trợ nhưng triều đình Tự Đức không tán thành. Ngày 25 / 4 / 1882, Rivière ra lệnh tấn công thành Hà Nội lần thứ hai. Tiếng súng đại bác đã xóa tan giấc mơ thương thuyết của triều đình Huế. Mặc dù quân đội triều đình do Hoàng Diệu chỉ huy đã chiến đấu ngoan cường nhưng cuối cùng vẫn không giữ được thành. Quân Pháp chiếm thành Hà Nội, thừa cơ đánh chiếm ra các tỉnh lân cận.

Hành động xâm lược của quân Pháp làm cho quân và dân ta vô cùng căm giận, vòng vây của quân và dân ta siết chặt Hà Nội. Đặc biệt là sự kết hợp hiệu quả của hai đội quân do Hoàng Tá Viêm và Lưu Vĩnh Phúc chỉ huy đã làm nên chiến thắng Cầu Giấy lần thứ hai. Quân địch bị thiệt hại nặng nề, Rivière cùng nhiều binh sĩ tử trận. Trong lúc đó, triều đình Huế vẫn tự hãm mình trong thế bị động thương thuyết, nuôi ảo tưởng sau trận này quân Pháp sẽ lại điều đình như 10 năm về trước. Nhưng đó chỉ là ảo tưởng. Khi được thông qua một ngân sách lớn 5 triệu franc, chính phủ Pháp quyết định kết thúc cuộc chiến bằng việc đánh thẳng vào Huế.

Ngày 18 / 3 / 1883 Pháp đánh chiếm cửa Thuận An, triều đình Huế xin đình chiến. Điều ước Hác-măng (Harmand) ra đời ngày 25 / 8 / 1883 chính là sự phản bội lớn nhất của triều đình đối với nhân dân một lòng kháng Pháp. Kế tiếp triều đình tiếp tục phải ký một hiệp ước mới ngày 06 / 6 / 1884 (hiệp ước Pa-tơ-nốt [Patenôtre]). Hiệp ước Pa-tơ-nốt được soạn thảo trên cơ sở điều ước Hác-măng, có khác một điều là Pháp trả lại cho triều đình Huế Thanh - Nghệ - Tĩnh và Bình Thuận. Như vậy, đến đây, về cơ bản triều đình Huế đã chịu khuất phục trước sự xâm lược của kẻ thù.

Âm mưu xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp được cụ thể hóa bằng sự kiện mở màn ngày 01 / 9 / 1858 và cơ bản hoàn thành bằng điều ước Pa-tơ-nốt [Patenôtre] 1884. Trong suốt hơn 20 năm ấy chúng đã gặp sự kháng cự quyết liệt của quân và dân ta, nhưng tiếc thay triều đình Huế lúc chiến, lúc hòa, với những đối sách mâu thuẫn với phong trào yêu nước chống Pháp của quần chúng nhân dân. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho thực dân Pháp thôn tính dần dần, tiến tới xác lập ách đô hộ lên đất nước ta. Cuộc nổi dậy ở kinh thành Huế của phái chủ chiến ngày 05 / 7 / 1885 và phong trào nhân dân chống Pháp bình định (1885 - 1896) khẳng định lòng yêu nước, ý chí chống Pháp của nhân dân không chịu sự “bảo hộ” của kẻ thù.

1.3. Ảnh hưởng của gia thế và quê hương Quảng Trị đến con người Nguyễn Văn Tường

Gia thế và quê hương chính là hai yếu tố tạo thành con người và nhân cách Nguyễn Văn Tường - nhân cách một con người đã đi vào lịch sử dân tộc với những dấu ấn đặc biệt, còn để lại đến ngày nay những dấu hỏi lớn. Xác định đúng những yếu tố cấu thành con người cũng như ảnh hưởng của gia thế, quê hương chính là cơ sở đầu tiên để nhận thức, đánh giá Nguyễn Văn Tường trong lịch sử dân tộc nửa cuối thế kỉ XIX.

Nguyễn Văn Tường sinh ngày 22 / 8 năm Giáp thân (14 / 10 / 1824 – bt.) tại làng An Cư, huyện Đăng Xương, phủ Triệu Phong (nay là xã Triệu Phước, huyện Triệu Phong), tỉnh Quảng Trị. Về năm sinh Nguyễn Văn Tường, có nhiều tư liệu ghi khác nhau. Theo Y. Tsuboi, Nguyễn Văn Tường sinh năm 1818, cộng thêm một dấu hỏi (?) hoài nghi [71, 305]. Phan Trần Chúc viết: Nguyễn Văn Tường được sinh ra đời vào năm 1820 [18, 114]; còn các tài liệu phổ biến chép rằng năm sinh của ông là 1824.

Qua xem xét tài liệu, cho thấy, mốc thời gian 1818, 1820 các tác giả đưa ra không có các cơ sở xác thực. Tài liệu đáng tin cậy tôi tìm được ở gia tộc Nguyễn Văn Tường, bản chữ Hán do Nguyễn Văn Tường lập năm 1874 ghi rõ: “Công sinh ư Minh Mạng (ngũ niên), Giáp Thân bát nguyệt, nhị thập nhị nhật, tuất thìn tốt ư” [79, 13] (nghĩa là: Ông được sinh ra đời vào năm Minh Mạng thứ năm - Giáp thân (1824) tháng tám, ngày 22, [khoảng từ giờ tuất, 19 – 21 giờ, đến cuối giờ thìn, 7 - 9 giờ ? - bt.] [*]). Vì vậy có thể xem ngày 22 / 8 năm Giáp thân, Thiệu Trị thứ năm (14 / 10 / 1824) là chính xác hơn cả.

Làng An Cư, xã Triệu Phước cách thị xã Đông Hà 6 km về phía Đông, nằm bên dòng sông Hiếu; bên kia là Việt Yên (phía Bắc) và Lưỡng Kim (Tây, Tây Nam). Lịch sử định cư của người Việt ở đây khá sớm, hiện nay ở làng An Cư có đình Tiền Hiền thờ một viên quan họ Nguyễn, làm đến phó tướng. Đất An Cư chính là vùng được phong cấp (lộc điền) từ đầu thế kỷ XVI.

Đất An Cư cũng là một vùng địa linh. Trước làng có một cái bàu lớn không bao giờ cạn nước. Bên cạnh là một dải đất cao nổi lên như ngọn bút (nên được gọi là nghiên - bút). Phía sau làng nổi lên những cồn đống nhỏ, đống lớn như những bình phong che chở cho làng. Dân gian có câu:

“Tiền phương lưu thủy tăng tri thức
Hậu phương [cảnh? – bt.] tọa sơn ứng vạn [tính? – bt.] linh”.


(Nghĩa là: Phía trước làng có dòng nước chảy làm tăng thêm tri thức, sự hiểu biết, học vấn. Phía sau là núi (làm án) hội tụ mọi sự anh linh [ứng với bản tính anh linh của con người -bt.]). Đất An Cư đã sinh ra kỳ vĩ Quận Công Nguyễn Văn Tường.

Nguyễn Văn Tường sinh ra trong một gia đình tương đối khá giả, có điều kiện học tập. Lâu nay, nhiều tư liệu nói ông sinh ra trong một gia đình nghèo, tiểu nông hay “con một thợ mộc bình thường”. Xét thấy, đó là những dữ liệu thiếu căn cứ, hoặc dư để tô đậm bản lĩnh Nguyễn Văn Tường nhà nghèo nhưng vẫn học giỏi mà thôi.

Thực chất họ Nguyễn Văn là một họ lớn và chi phái Nguyễn Văn Tường là một chi lớn trong họ. “Họ Nguyễn chúng ta từ khi đến chỗ này lập nghiệp sinh tụ ngày càng đông đã trở thành một họ lớn trong làng. Chính nhờ phúc ấm ông bà, phái chúng ta trở thành một chi phái lớn trong họ” (gia phả). Căn cứ vào gia phả cũng có thể chứng minh gia đình Nguyễn Văn Tường không nghèo như người ta vẫn nói. Nguyễn Văn Tường thuộc đời thứ bảy, nhưng ở đời thứ ba, ông Nguyễn Thế Tá đã có làm quan ở Quảng Nam. Ông Nguyễn Thế Tá có đến 5 người con trai và 3 con gái. Đến đời ông nội (Nguyễn Văn Trác), [ông Trác - bt.] có 2 vợ. Đến đời cha là Nguyễn Văn Dậu, [ông Dậu - bt] có đến 3 bà vợ. Trong lúc đó Nguyễn Văn Tường là con trai trưởng, gia đình sẽ có điều kiện chăm lo việc học hành cho ông.

Gia phả cũng cho biết ông Nguyễn Thế Tá là người có học hành, có tiếng tăm về văn chương, làm quan ở Quảng Nam, mất lúc đương chức và là người “mở đầu cho truyền thống gia đình, tộc họ nhà ta”. Vậy có “sự mở đầu” chắc phải có một sự kế tiếp mà có thể tư liệu không ghi lại. Song ở một mức độ nào đó, từ ông Tá, ông Quyết, ông Trác đến ông Dậu, các vị đều có học vấn, ít nhiều quyền lực (tuy nhỏ) và của cải, tuy rằng không có tài liệu nào nói về tài sản cũng như đất đai của gia đình. Đến đời Nguyễn Văn Tường, ông được thừa hưởng truyền thống đó (mà ông gọi là nhờ phúc ấm ông bà) cộng với những tố chất bẩm sinh hơn người, cho nên ông đã nhanh chóng phát triển năng lực, thể hiện một tài năng lớn, nhất là khi đi thi và làm quan mà lịch sử đã ghi lại.

Nhiều tư liệu dân gian nói Nguyễn Văn Tường là con vua Thiệu Trị, tiêu biểu là Nguyễn Đắc Xuân. Trong “Hương Giang cố sự”, có đoạn viết: “Năm ấy đức Minh Mạng đi tuần du Quảng Trị, có đem Tường Khánh công (tức vua Thiệu Trị sau này) đi theo. Ở hành cung Quảng Trị, thấy một người con gái đẹp đi ngang, gọi vào “dùng”, sau đó công theo phụ hoàng trở lại Huế, không ngờ người con gái ấy có thai và người con gái ấy đã sinh ra Nguyễn Văn Tường. Khi sinh ra bà có nói thật nên Nguyễn Văn Tường lấy họ vua để đi thi”.

Tôn Thất Hào cũng nói, “Cụ Tường là con của vua Thiệu Trị chứ không phải là con một ông thợ mộc như Y. Tsuboi đã viết trong “Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa”. Con thợ mộc thì khó có điều kiện để ăn học đến đỗ đại khoa. Là con hoang nên không được mang họ Nguyễn Phước, được giữ nuôi ở nhà thường dân. Thiệu Trị biết rõ là con mình nên có gửi tiền cho ăn học. Khi nộp đơn thi Hương, cụ Tường bỏ họ Nguyễn Văn bách tính lấy họ vua” [23, 88].

Vậy vấn đề là ở chỗ, Nguyễn Văn Tường đi thi lấy họ Nguyễn Phước nên bị nói là con vua Thiệu Trị. Về mặt thời gian mà nói, năm 1823, sách “Đại Nam thực lục”“Minh Mạng chính yếu” của Quốc sử quán triều Nguyễn không nói đến việc Minh Mạng đi tuần du Quảng Trị. Như vậy là việc Tường Khánh công có đi theo Minh Mạng ra Quảng Trị hay không, ra lúc nào, thực sự không có tài liệu tin cậy. Việc Thiệu Trị thời trẻ có hoang chơi hay không thì không thấy ghi trong sử sách (như trường hợp Dục Đức chẳng hạn). Chúng ta đều biết rằng Minh Mạng là vua nghiêm khắc nhất triều Nguyễn và việc đối xử về quyền lợi họ mạc cũng rất rõ ràng. Thời gian từ 1824 đến 1840 không phải là ngắn để Thiệu Trị có thể che giấu “con rơi” của mình. Và nếu, vì cái “bóng” Minh Mạng quá lớn mà Thiệu Trị không dám hành động [nhận con rơi – bt.] thì tại sao khi lên ngôi ông không làm, và sau này, khi phát hiện Nguyễn Văn Tường phạm húy ông đã trừng trị nghiêm khắc?

Về phía gia tộc mà nói, họ Nguyễn Văn là một họ lớn, có vai vế, có học vấn, lẽ nào có thể chấp nhận một người con gái đã từng qua tay Thiệu Trị. Khi sinh ra Nguyễn Văn Tường, bà Thị Liên (mẹ Nguyễn Văn Tường) nếu có nói lại như vậy, liệu gia tộc có còn chấp nhận bà trong suốt thời gian còn lại, [quãng thời gian - bt.] mà bà còn sinh thêm 2 con trai và năm người con gái, trong lúc phong tục của người Việt rất xem trọng việc họ và người kế tục?

Việc Nguyễn Văn Tường lấy họ vua đi thi, “Đại Nam thực lục chính biên” ghi rõ: “Nhâm Dần, Thiệu Trị năm thứ hai, mùa thu tháng 7... Trong danh sách tú tài trường Thừa Thiên có người tên là Nguyễn Phước Tường, vua ghét mạo dùng họ nhà vua, sai cắt bỏ nên trong sổ tú tài, đổi làm Nguyễn Văn Tường và giao cho Viện Đô sát trị tội... Khi án xét dâng lên vua lại giao đình thần bàn lại, Tường bị tội đồ một năm, học quan ở tỉnh, phủ, huyện, quan Quốc tử giám, quan trường, Bộ Lễ và Viện Đô sát đều bị phân biệt giáng phạt” [52, 165].

Như vậy, qua việc này cho thấy, Thiệu Trị rất nghiêm khắc trong việc mạo dùng họ vua. Ông không hề “giảm tội” cho Nguyễn Văn Tường mà còn lại dụ thêm rằng: “Từ nay, phàm kẻ nào cố ý lạm mạo họ vua, nếu hai chữ họ hay hai chữ tên mà phạm vào dòng dõi thuộc thế tộc Tôn Thất - chi gần thì chiếu theo luật “đại bất kính”, xử tử” [52, 165].

Nguyễn Văn Tường là người có học thức, không thể nói là ông không biết việc mạo dùng họ vua sẽ bị tội lớn. Vậy sao ông vẫn dùng họ vua để đi thi? Tại sao học quan từ địa phương đến triều đình không phát hiện hay cố tình không phát hiện ra điều đó? Thực sự đây là một câu hỏi còn để ngỏ. Nhưng có một điều không biết vì lý do nào mà thủy tổ của họ là: Nguyễn Thế, đến đời thứ hai đổi là Nguyễn Viết, đời thứ ba đổi lại Nguyễn Thế nhưng đời thứ năm lại đổi ra Nguyễn Văn...?

Nguyễn Văn Tường khi ra làm quan cũng biết lời đồn đại như thế, ông không phân bua về gốc tích mà đã trả lời bằng việc cho con trai là Nguyễn Văn Tộ lấy con gái hoàng tộc. Và nếu ông biết điều đó [mang dòng máu Thiệu Trị - bt.] thì không thể tạo nên một sự “loạn luân” kia được. Nếu nói “cụ quận “trả thù” hoàng tộc” [23, 88] như Tôn Thất Hào thì thật khó chấp nhận ở đây.

Tóm lại, qua khảo sát, nghiên cứu cho thấy, Nguyễn Văn Tường được sinh ra trong gia đình có truyền thống văn học và tương đối khá giả như đã chứng minh. Một tài liệu ít cơ sở tin cậy nhưng cũng nói lên điều đó là: Khi bị tội đồ một năm bằng việc cắt cỏ cho ngựa, Nguyễn Văn Tường không đi mà lại thuê người khác làm thay. Điều đó nói lên rằng gia đình Nguyễn Văn Tường cũng có ít tiền để thuê người làm.

Đất An Cư là một vùng địa linh, khá trù phú, thu hút nhân dân đến sinh sống, lao động từ những năm đầu thế kỷ XVI. “Địa linh” chưa hẳn sinh “nhân kiệt” nhưng trường hợp Nguyễn Văn Tường sinh ra trên vùng đất ấy cũng là một thực tế lý thú đáng suy ngẫm. Một con người mà vua Tự Đức từng khen “Quảng Trị sơn xuyên hà dị, sinh Nguyễn Văn Tường thậm tú” (núi sông Quảng Trị linh dị như thế nào / vô cùng linh dị / sinh Nguyễn Văn Tường vô cùng anh tú).

Việc tại sao Nguyễn Văn Tường lại dùng họ vua để đi thi vẫn còn là một thắc mắc, nhưng kết luận ông là con Thiệu Trị, thì tư liệu cũng khó có thể chứng minh điều đó.

Truyền thống quê hương, gia đình, tộc họ đã ảnh hưởng to lớn đến việc hình thành con người và nhân cách Nguyễn Văn Tường. Ông đã được thừa hưởng truyền thống ấy và nâng cao lên cao nhờ năng lực bẩm sinh vượt trội. Những cống hiến của ông trong cuộc đời làm quan đã chứng minh điều đó.




Chương 2

CON ĐƯỜNG LÀM QUAN CỦA NGUYỄN VĂN TƯỜNG ( 1850-1885)

2.1. Từ quan huấn đạo đến phủ doãn Thừa Thiên (1850 - 1866)


Được thừa hưởng truyền thống văn học của gia đình, với tài năng bản thân, Nguyễn Văn Tường nổi tiếng về thông minh, học giỏi. Ông quyết định tiến thân bằng con đường khoa cử. Bấy giờ, đúng vào lúc chế độ phong kiến nhà Nguyễn bắt đầu khủng hoảng và suy yếu.

Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842 - một số tài liệu về năm 1847), Nguyễn Văn Tường đi thi hương đậu cử nhân, nhưng bị truất bỏ kết quả do lấy tên là Nguyễn Phước Tường. Y. Tsuboi dựa vào một tư liệu cho rằng, Nguyễn Văn Tường không được đi thi vì cha ông đã dính líu vào một cuộc nổi dậy: “Vì tội của cha mà Tường không được ra ứng thí” [71, 305]. Điều này không đúng với “Đại Nam thực lục” đã ghi, trong gia phả cũng có chép “Thiệu Trị ngũ niên thi trúng tú tài hậu dĩ can quốc tánh quyển diện đề Nguyễn Phước Tường, truất lạc nghị án” (Năm Thiệu Trị thứ năm, thi đậu tú tài, sau vì phạm luật về họ vua, ngoài quyển thi đề Nguyễn Phước Tường, nên bị đánh rớt, nghị án – bt.).

Năm Tự Đức thứ 3 chuẩn cho được đi thi lại và ông tiếp tục thi trúng cử nhân. Chính Nguyễn Văn Tường đã viết “khởi đầu tiếc thay bản án đã không cho tôi thi, sau được ân huệ cao cả của hoàng đế, tôi đã đi thi và đậu số một” [dẫn theo (dt.), 71, 306].

Ban đầu Nguyễn Văn Tường được bổ làm huấn đạo (chức quan trông coi việc học) ở huyện Mộ Đức (Quảng Ngãi), sau được đưa ra Quảng Trị làm tri huyện Thành Hóa (ngày nay là Cam Lộ, Hướng Hóa, Đakrông). Trong suốt thời gian làm tri huyện Thành Hóa, Nguyễn Văn Tường thể hiện một tài năng trong việc ứng xử, thu phục các dân tộc thiểu số, chiêu dân lập làng, thiết lập đồn phòng thủ Cam Lộ, Cửu Châu (chín châu ki-mi – bt.). Điều này đã được “Đại Nam thực lục” ghi lại rất rõ:

- Tháng 7 / 1856 [tháng 8 Bính thìn - bt.], “dân Man ở Quảng Trị lưu tán đã lâu, viên tri huyện Thành hóa là Nguyễn Văn Tường, phó quản Cơ Định man là Nguyễn Bằng, phái thông lại là Nguyễn Công Đạo đi chiêu dụ bọn dân man đem nhau trở về xin nộp thuế lệ, phủ thần Thừa Thiên đem việc tâu lên, Công Đạo được thưởng thụ lại mục, Tường và Bằng đều được thưởng kỷ lục một thứ’’ [53, 271].

- Năm 1857 [Đinh tị - bt.], “huyện Thành Hóa (thuộc Quảng Trị), chiêu dụ tên Lâm Ngô ở Mường Vang đi chiêu tập dân man trở về, vừa đàn ông đàn bà được 270 người. Phủ thần phủ Thừa Thiên xin cho miễn thuế những năm trước. Phủ thần châu ấy già yếu xin cho con là Lâm Ngô thay, vua y cho, lại thưởng cho người đứng chiêu phủ là tri huyện Nguyễn Văn Tường, phó quản Cơ Định man là Nguyễn Bằng, mỗi người ba tháng tiền lương” [53, 314].

- Kỷ mùi, mùa xuân, Tự Đức năm thứ 12 (1859), “Trưởng man châu Tá Bang huyện Thành Hóa là Linh Tuấn chiêu dụ dân lưu tán trở về (291 đứa), tình nguyện đóng thuế và một thớt voi đực. Quan phủ Thừa Thiên tâu lên, vua ban khen, bổ cho Tuấn làm thổ tri châu, thưởng cho mũ áo (chánh bát phẩm), áo sa (2 chiếc), quần (1 cái) và hà bao gấm (1 cái) và ngân tiền (3 đồng). Tri huyện Nguyễn Văn Tường vì khéo phủ dụ, thưởng cho kỷ lục một thứ’’ [54, 48].

Chính nhờ tài năng của Nguyễn Văn Tường mà tình hình dân cư Thành Hoá ngày càng đông đúc, an ninh được ổn định, nông nghiệp, thủy lợi ngày càng phát triển. Để tưởng nhớ công đức của ông, dân cư ở đó đã lập đền thờ để thờ tự. Cũng chính nhờ việc làm siêng năng và hiệu quả ấy mà vua Tự Đức đã nhiều lần khen thưởng. Năm 1858, Nguyễn Văn Tường được phong làm tán lý Bộ Binh, không lâu sau được phong làm án sát tỉnh Quảng Nam (1861) và đến 1863 là tán lý Bộ Binh, kiêm dinh điền sứ hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên.

Với nhiệm vụ và trọng trách này, Nguyễn Văn Tường ra sức chiêu mộ dân để mở mang đất đai, đào kênh vét lạch, sửa sang đê điều. Quảng Trị và Thừa Thiên là hai vùng đất căn bản (kinh đô và kề cận kinh đô) nên được giám sát chặt chẽ; tình hình đó cũng tạo ít nhiều thuận lợi cho Nguyễn Văn Tường trong quá trình thực thi công việc. "Thực lục" ghi “Giáp tý, Tự Đức năm thứ 17, mùa xuân tháng giêng, sai hữu thị lang Bộ Lại là Thân Văn Nhiếp, biện lý Bộ Binh là Nguyễn Văn Tường đi các châu tổng trong huyện Thành Hóa, đạo Quảng Trị để thăm xét tình hình địa thế” [55, 51].

Có thể nói, nhờ tài năng và sự tận tụy nên Nguyễn Văn Tường đã được Tự Đức tin dùng vào công việc trọng yếu. Mùa xuân năm 1864, ông được phong làm phủ doãn phủ Thừa Thiên (người đứng đầu bộ máy cai quản khu vực), điều đó như là một sự xem trọng người tài trong thời buổi chính trị phức tạp. “Đại Nam thực lục” ghi: “Vua cho là hiện nay dân lương, đạo khích nhau, kinh ấp Thừa Thiên, Nghệ An hạt lớn cần được người giỏi để hiểu bảo cho yên. Bèn cho Ngụy Khắc Đản lãnh bố chánh sứ Nghệ An, Nguyễn Văn Tường làm chức phủ doãn” [55, 97].

Làm phủ doãn tỉnh Thừa Thiên [và đạo Quảng Trị - bt.], Nguyễn Văn Tường là người có thâm niên trong hiểu biết về dân tình địa thế, cũng như đời sống nhân dân. Vì vậy đến tháng 7 / 1864 Nguyễn Văn Tường lại kiêm luôn chức khuyến nông sứ “đi khắp phủ hạt và đạo Quảng Trị để xem xét địa thế tùy cho dân khai khẩn” [55, 148]. Tháng 6 / 1865, lại đi khám xét sông Vĩnh Định, khuyến khích khởi công về việc trị thủy. Cũng vì đi nhiều, biết nhiều về người Thượng nên Nguyễn Văn Tường có cách ứng xử rất hiệu quả trong tiếp xúc cũng như các ý kiến tâu bày thường có tính thuyết phục cao. Chúng ta hãy xem xét lời lẽ và những phân tích về cái lợi cái hại của ông.

Mùa xuân tháng hai, [Ất sửu, Tự Đức năm thứ 18 - bt.] (1865), tri huyện Thành Hóa Nguyễn Duy Tự xin đem quân đi xếp đặt công việc ở Trấn Lao. Tự Đức bảo với các quan đại thần: “Nguyễn Duy Tự không phải là người trọng hậu, tựa như người hiếu sự, ở nơi biên viễn mà không được như Nguyễn Văn Tường, thì lợi chưa thấy mà hại đã sinh ra, hối làm sao kịp” [55, 171]. Vua hỏi ý kiến Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Văn Tường nói: “Các châu ở Thành Hóa đất liền với kinh đô, đời đời làm phên che giúp đỡ, sản vật có thể dùng được, dân phong có thể sai khiến được, há nên cho các châu nên ràng buộc qua loa, còn về rừng sâu khí độc thì có người đã qua ở, chịu đựng nổi, dân man không biết gì thì lấy sự dễ dãi để thân cận họ, biên viễn là việc quan hệ thì đã có viên đại thần để trông coi, lại khoan cho kỳ hạn cho được tùy nghi sửa sang dần dần mới mong có thành hiệu... Thần sinh trưởng ở đất ấy, trước kia đã làm tri huyện ở đó hơn 9 năm [nhấn mạnh - bt.], năm ngoái lại đi khám xét, thì Trần Đình Túc là người giỏi giang công việc, tôi không thể theo kịp được. Nhưng về tục xứ ấy, tình người man thì Đình Túc chưa hiểu rõ được như thần, xin cho thần được đổi sung chức tuyên phủ sứ và kiêm chức khuyến nông. Phàm công việc nên làm ở bảo Trấn Lao thì đốc sức cho huyện viên sửa sang, còn ruộng nương, việc trị thủy, đời sống của dân, điều lợi điều hại thì hội cùng với đạo thần thương lượng mà làm” [55, 172].

Mùa đông, tháng 11 [Bính dần - bt.] (1865), Nguyễn Văn Tường tâu nói: “Đồn Trấn Lao hơi có lam chướng, nhưng đất rộng dân thuần, không khác gì trung châu, lại nghe người Tây sắp phái người chiếm đất hoang ở đằng sau núi, nên phải tính ngay, xem ra mạo lam chướng, vỡ đất hoang giữ gìn đời sống có nhiều cách, chỉ có người nhà Thanh là hơn cả, lũ đầu mục giặc ở Cao Bằng, nếu có, xin đem 200, 300 người, và người Khách ở gần phủ đạo đến các phận rừng đồn ấy khai khẩn dần dần thì cho được khai mở lập thành hộ để thêm giữ giúp. Trong 2, 3 năm, tưởng cũng dần dần được thành hiệu, đầu mục giặc đã bỏ sào huyệt, chia bè lũ thì thế đề phòng mà đất để không ở biên giới, đều có chia giữ, cũng là việc cần chiếm đất khai hoang trước” [56, 89]. Vua y cho.

Nguyễn Văn Tường cũng là người thường xuyên quan tâm đến đời sống của nhân dân, đặc biệt là những dân nghèo ở vùng núi, vùng biển. Bản tấu mùa xuân 1865 của ông chứa đựng cái nhìn nhạy cảm, sâu sắc: “Gần đây ở kinh thành mọi người tụ họp kiếm ăn rất nhiều, liền mấy năm mất mùa, lúa chiêm nay lại tổn hại, sau này tình hình quẩn bách, so với năm ngoái sợ lại tệ hại hơn. Nếu đợi đói mới cấp nuôi, đợi rét mới cấp áo, không những thế khó được chu đáo mà của kho kế tiếp sao được. Vậy nên tính việc cứu giúp từ trước để cho được tùy tiện sinh sống rồi sẽ bổ cấp thêm, xin liệt kê 4 khoản sau đây:

1/ Xin cấp cho dân ở ven núi

2/ Xin cấp cho dân đánh cá ở ven biển

3/ Xin cho ruộng ở các xã đã cầm cố trả về dân để cày cấy

4/ Xin dời huyện lỵ Hương Thủy làm ở nơi khác”
[55, 187].

Có thể nói, đó là những đề nghị thiết thực, thể hiện lương tâm và lòng nhiệt huyết qua những biện pháp cứu vãn tình thế khó khăn cho đông đảo nhân dân. Thế nhưng trong hoàn cảnh mà tình hình chính trị ngày càng khó khăn, phức tạp thì tình hình đời sống nhân dân cũng ít được quan tâm. Vì vậy, Tự Đức do dự: “Cấp tiền gạo, dời huyện lỵ, cốt dân có chỗ trông chờ được, quan không hư phí, không đến nổi để thêm bận giấy tờ thì mới tốt. Về khoản ruộng công, thực là tệ hại đã lâu, nhưng dân tính chưa rõ, khó khinh suất mà cho được” [55, 188]. Sai bộ [Hộ - bt.] duyệt lại, bộ thần cho là: Về khoản trả lại ruộng cầm cố cho dân cày cấy, chỉ sinh thêm sự làm hại cho dân thôi, rồi không thi hành.

Qua sự trình bày ở trên cho thấy, Nguyễn Văn Tường là người luôn để lòng chăm lo cho dân, ông cũng là người giỏi về doanh điền, khẩn nghiệp. Những đề nghị, các ý kiến của ông đều có tính thiết thực, có cái được Tự Đức nghe theo, có cái vua còn do dự, nhưng Tự Đức vẫn luôn xem trọng tài năng của ông. Mùa xuân, tháng hai [Bính dần, Tự Đức năm thứ 19 - bt.] (1866), trong só 40 người được thăng thụ, Nguyễn Văn Tường được khen là người “siêng năng tài cán” [56, 14].

Vào thời điểm Nguyễn Văn Tường làm phủ doãn Thừa Thiên thì tình hình chính trị trong nước đang ở tình trạng khủng hoảng. Thực dân Pháp đã chiếm được ba tỉnh miền Tây Nam kỳ. Hiệp ước 1862 đã để lại những điều khoản bất lợi cho triều đình Huế. Miền Nam, phong trào kháng Pháp lên cao mà triều đình thì muốn hòa nghị. Miền Bắc, Lê Duy Phụng nổi lên chống đối. Ở triều đình Huế cũng không kém phần phức tạp. Đặc biệt sau cuộc “chính biến cung đình” (lời của Y. Tsuboi) thì âm mưu chống đối và lật đổ vua Tự Đức lại càng gây lên sự chống đối chính trị cao độ.

Tự Đức (Hồng Nhậm – bt.) vốn là con thứ, lại được nối ngôi mà không phải là con trưởng – Hồng Bảo. Đó là “một quyền thừa kế chính thống bị tranh cãi”. Vì vậy, Hồng Bảo cầm đầu một phe cánh trong hoàng tộc và một số triều thần có sẵn lòng bất mãn, lại “tìm cách tiếp xúc với các thừa sai và giáo dân với hy vọng lật đổ em mình” [71, 193]. Tự Đức cũng tìm cách củng cố vị trí của mình bằng lễ phong vương của nhà Thanh [ngay tại Huế - bt.]. Sự kiện này được Y. Tsuboi kết luận: “Về nội trị nó cho phép Tự Đức khẳng định tính chính thống của mình mà khỏi phải đi xa, tạo cơ hội cho những người chống đối lợi dụng” [71, 191].

Từ tháng giêng, Giáp dần, Tự Đức năm thứ 7 - bt.] (1854), âm mưu của Hồng Bảo không thành; sự vụng về chính trị ấy cho phép chính quyền Tự Đức củng cố cơ sở, và các phe cánh của Hồng Bảo vĩnh viễn bị loại khỏi sân khấu chính trị.

Tuy nhiên cũng từ đây, âm mưu về các vụ lật đổ luôn thường trực. [Tháng 7, Giáp tí - bt.] (1864), ở kinh đô Huế lại xảy ra một vụ âm mưu bạo động của công tử Hồng Tập cùng một số đại thần. Sự kiện bại lộ, Hồng Tập bị chém bêu đầu. Sau sự kiện này, Nguyễn Văn Tường được tặng thưởng vì “biết trích phát bọn gian, thưởng gia một cấp và cho một cái nhẫn bằng vàng khảm hạt pha lê lóng lánh” [55, 156].

Sau cuộc đảo chính không thành của Hồng Tập, Tự Đức thay đổi thái độ, sợ những âm mưu khác lại xảy ra, nên đã lệnh cho các chức quyền canh gác nghiêm ngặt các con của Hồng Bảo. Tự Đức hỏi Nguyễn Văn Tường về việc của Đinh Đạo (con trưởng của Hồng Bảo), Nguyễn Văn Tường đáp: “Cái án của Đinh Đạo thần không dám bàn tán, chỉ xin chia ghép các người con đến những nơi gần tỉnh Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Bình, mỗi tháng xem xét tình hình, tư vào Mật viện để đề phòng sự trễ nải” [55, 187]. Sau đó, Đinh Đạo bị giam [lỏng - bt.] ở Huế để không tiếp xúc với người ngoài.

Đến [tháng 8, Bính dần - bt.](1866), lợi dụng việc Tự Đức xây dựng “Vạn Niên cơ” tốn kém của cải, lại huy động nhiều dân phu làm việc cực khổ, Đoàn Hữu Trưng đã “bí mật tiến hành tổ chức, tập trung liên kết các lực lượng ở kinh thành để mở cuộc khởi nghĩa lật đổ Tự Đức, đồng thời đặt quan hệ với Trương Định, thủ lĩnh nghĩa quân chống Pháp ở Nam Kỳ để khi cần thiết đưa Đinh Đạo băng miền vào trong” [4, 44].

Trước ngày khởi sự, Đoàn Hữu Trưng bàn với gia đình Đinh Đạo lập đàn chay giải oan cho Hồng Bảo, “đặng có điều kiện khơi dậy mối căm thù đối với Tự Đức trong hoàng tộc và nhân dân, cũng là một cái cớ hợp pháp để tập trung sư sãi, những người thân thuộc và lực lượng nòng cốt... Đây cũng là một cái cớ nhằm che mắt bọn quan lại, nhất là phủ doãn Thừa Thiên Nguyễn Văn Tường” [4, 46]. Tuy nhiên Nguyễn Văn Tường vẫn nghi ngờ sự khác thường ở Dương Xuân (nơi diễn ra lễ chay), “sai người đến chùa Pháp Vân dò xét, nhưng thấy chỉ dụ của Tự Đức cho phép gia đình Hồng Bảo lập lễ đàn nên cũng phải làm ngơ” [4, 46].

Cuộc khởi nghĩa được tổ chức bí mật, chu đáo, nổ ra đêm 18 / 9 / 1866, đánh thẳng vào kinh thành, tiến sát tận giường ngủ Tự Đức. Nhưng cuối cùng vẫn thất bại. Sau cái “chết hụt” này không những những người liên quan bị xử tử mà các quan lớn nhỏ bị xử phạt năng nề. Nguyễn Văn Tường là phủ doãn Thừa Thiên, vì không kiểm soát được tình hình, nên bị cách chức, “cho gắng sức chuộc tội, cũng là vì sơ suất việc canh phòng kiểm soát” [56, 57].

2.2. Thời gian từ 1866 - 1874
(Từ sau khởi nghĩa Đoàn Hữu Trưng đến hòa ước Giáp Tuất 1874)


Sau khởi nghĩa Đoàn Hữu Trưng, Nguyễn Văn Tường đã bị cách chức. Tuy vậy, Tự Đức vẫn tôn trọng tài năng cũng như công lao của ông, cho gắng sức chuộc tội. Cuối năm 1866 [Bính dần, Tự Đức năm thứ 19 - bt.], Nguyễn Văn Tường được khôi phục hàm biên tu, làm bang biện huyện Thành Hóa, sau làm khâm phái Sơn phòng Quảng Trị, được cấp ấn sơn phòng riêng để tiện việc tâu bày.

Nguyễn Văn Tường lại tiếp tục công việc ở phía tây Quảng Trị, nơi phải thường xuyên tiếp xúc với đồng bào dân tộc thiểu số. Cộng với những kinh nghiệm nhiều năm trước, Nguyễn Văn Tường tỏ ra rất hiệu quả trong cách giải quyết các vấn đề sơn phòng, ổn định biên giới, giải quyết các xung đột cũng như bảo vệ quyền lợi của nhân dân. “Đại Nam thực lục” còn ghi lại: mùa đông, [tháng chạp Bính dần - bt.] (1866), “Hoang man ở Quảng Trị thù nhau với Thục man, thường đến cướp bóc, quan tỉnh ấy xin sai Bang biện là Nguyễn Văn Tường xét xử theo tục người man, cho bồi thường ngang nhau, để hết mồi tranh, vua nghe theo” [56, 100].

Mùa xuân, tháng 2, [Đinh mão, Tự Đức năm thứ 20 - bt.] (1867), Nguyễn Văn Tường tâu nói: “Dân theo đạo tình nguyện theo dân vỡ ruộng, nên cho mộ dân còn lại chưa có tên ở sổ đinh, cho ở gần chỗ dân lương để khai khẩn, một là để biết rõ số dân đi đạo, hai là để rộng dân cư, tưởng cũng hơi tiện”. Nhưng Viện Cơ mật lại cho rằng: “Đạo Cam Lộ là nơi quan yếu, bắt đầu tụ tập mở mang. Chính nên cẩn thận, để phòng bị từ lúc còn nhỏ, nên thôi đi, ngõ hầu khỏi lo ngại về sau” [56, 116 ], vua nghe theo.

Mùa hạ, [tháng 5, Mậu thìn, Tự Đức năm thứ 21 - bt.] (1868), quan Bộ Hộ xin tăng thuế trường mậu dịch huyện Thành Hóa, lệ trước 4.000 quan nay tăng thêm 1.500 quan. Vua hỏi Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Văn Tường cho là “trường ấy mới dời đến chỗ khai khẩn, mở rộng nguồn lợi, mới có thể chiêu tập đến được, nếu vội tăng thêm thuế, thì người nghèo không lấy gì làm vốn mà dân man cũng không muốn thế, xin theo giá trước đánh thuế”. Vua nghe theo.

Trong quan hệ biên giới với Lào, Nguyễn Văn Tường cũng rất thận trọng cho dù Đại Nam là nước lớn. Tháng 3 [Đinh mão, Tự Đức năm thứ 20 (TĐ. 20) - bt.] (1867), quản đạo Quảng Trị là Đinh Văn Khoa xin chiêu phủ 3 châu Ba Lan, Tầm Bồn, Mang Bổng, vốn đã trả lại cho người Lào. Vua “sai Nguyễn Văn Tường xem xét làm việc. Văn Tường cũng xin tạm để yên” [56, 118] để giữ hòa hiếu.

Đến cuối năm, [tháng chạp Đinh mão, TĐ. 20 - bt.] (1867 --> 1868), Nguyễn Văn Tường được điều về Huế sung làm tùy biện cùng với hiệp biện đại học sĩ Trần Tiễn Thành đến Gia Định để bàn về việc Nam kỳ vì “vua nghĩ nước ta giao hòa với nước Pháp có định ước cũ, nay việc bờ cõi Nam Kỳ nên phải chước nghị, giấy tờ đi lại không bằng bàn ở trước mặt” [56, 184].

Sau khi thương thuyết với người Pháp về, thấy được bản chất, âm mưu của người Pháp không thể trả lại 3 tỉnh đã chiếm. [Và không lâu sau đó - bt.], Nguyễn Văn Tường, Phạm Đình Bình và Nguyễn Văn Phong đã làm sớ tâu rõ bản chất, thực trạng và đề ra những yêu cầu, giải pháp nhằm giữ lại phần đất còn lại của đất nước. Sớ nói rõ: “Ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên đã vào trong bụng người, hình cách thế cấm, ta khó giữ được mà người Tây cũng xem là vật trong túi... Bằng không thể giữ được thì bỏ đi mà lo toan về sau. Kinh sư là nơi nơi căn bản, đồn lũy đã kiên cố chưa? Khí giới đã sắc bén chưa? Đường thủy, đường bộ đã chu đáo, bền vững chưa? Hào sĩ mục dân làm thế nào cho cố kết, chỗ nào hiểm yếu thì canh giữ bằng cách nào cho vững, phàm những việc ấy nên tính kỹ, cho thi hành ngay” [56, 262]. Sau đó, Nguyễn Văn Tường lại quay trở lại Thành Hóa làm việc, nhưng qua sớ tâu cũng cho thấy Nguyễn Văn Tường ngay trong những cuộc tiếp xúc đầu tiên với Pháp đã thể hiện một dự cảm chính trị sâu sắc về tình hình đất nước, bước đầu thể hiện rõ tư tưởng chủ chiến của ông đối với người Pháp.

Trở lại Thành Hóa được ít lâu thì ở Bắc Kỳ có bọn giặc khách quấy phá, làm loạn ở các tỉnh Tam Tuyên, Lạng Sơn. Tháng 7 [Mậu thìn, TĐ. 21 - bt.] (1868), Nguyễn Văn Tường được điều ra Bắc với chức tán tương quân vụ. Nguyễn Văn Tường tỏ ra là người được việc, Nguyễn Bá Nhi - lúc đó là tổng đốc Sơn - Hưng - Tuyên - xem Nguyễn Văn Tường là người “giỏi giang hiểu biết” xin cất lên chức đốc phủ nhưng Tự Đức do dự. Tới tháng 3 [Kỉ tị, TĐ. 22 - bt.] (1869), Nguyễn Văn Tường được sung làm tham tán quân thứ Tuyên Quang. Thời gian này, Nguyễn Văn Tường cũng thường xuyên qua lại lãnh thổ Trung Quốc để thương thuyết với đề đốc Phùng Tử Tài về việc đánh dẹp tiễu phỉ. Phùng Tử Tài nhiều lần mang quân sang phối hợp với quân của Nguyễn Văn Tường, Vũ Trọng Bình để đánh [56, 357-371]. Tự Đức khen ngợi: “Tường giỏi về ứng đối, đặc cách cho sung việc hộ dẫn, theo bàn công việc mưu kế, đánh dẹp vỗ về” [57, 11].

Nhưng đến tháng 10 [Canh ngọ, TĐ. 23 - bt.] (1870), ban đêm giặc bất ngờ đánh úp thành Lạng Sơn, giết chết lãnh binh quan Lê Văn Dã. Sau đợt này Nguyễn Văn Tường bị giáng xuống hàng trước tác. Nhưng kế đến, lại chuẩn cho quyền sung chức tán tương, “sai viết quốc thư đưa cho tuần phủ Quảng Tây là đề đốc họ Phùng cầu tính giúp cho thỏa đáng” [57, 61]. Đến cuối năm, Nguyễn Văn Tường cùng các tướng thu thập tàn quân vừa đánh, vừa thuyết phục, trong vài tháng bọn giặc đã trả lại thành, Tô Quốc Hán xin hàng. Văn Tường được khen, gia một trật và một đồng “tứ mỹ kim tiền” [57, 81].

Mùa xuân [Tân mùi, TĐ. 24 - bt.] (1871), bọn giặc trốn ở Bắc Ninh lại nổi lên, lôi kéo bè lũ đến hơn bốn trăm người. Chúng quậy phá bừa bãi các hạt Đông ngàn, Kim Anh, Đa Phúc. Quân thứ Thái Hoàng Tài chết trận. Thống Đốc Hoàng Tá Viêm ủy cho Nguyễn Văn Tường đem hơn 2.000 quân đi đánh, cùng hợp với quân của Phạm Thận Duật, và đánh thắng ở Vũ Tiên, Tiên Dược (thuộc Kim Anh ). Bọn giặc tan rã, tên đầu sỏ sợ hãi trốn thoát. Sau đợt này, Văn Tường được khai phục “Quang lộc tự khanh” [57, 94]. Tới tháng 9 / 1871, Nguyễn Văn Tường đi dẹp yên toán giặc ở Bắc Lệ, Hòa Lạc; giải giúp tiền bạc lương gạo cho đồn Quang Lang tỉnh Lạng Sơn, đưa thẳng đến thành Lạng Sơn để đỡ sự cần cấp [57, 101]. Nhưng đến tháng 7, giặc chiếm đồn Quang Lang, nhiều người bị giáng phạt, trong đó Nguyễn Văn Tường bị giáng 2 cấp, cho lưu nhiệm [57, 105]. Tới mùa xuân 1872, Nguyễn Văn Tường phối hợp với quân của Trần Mân, Ông Ích Khiêm, đánh tan giặc trốn nước Thanh ở đồn Thanh Dã tỉnh Thái Nguyên; Tự Đức thăng thưởng có thứ bậc [57, 189].

Có thể nói, vua Tự Đức rất quan tâm đến vấn đề giặc Khách ở biên giới phía bắc. Ông thăng thưởng kịp thời cũng như giáng phạt đối với những chiến công hay thất bại của quân thừa tướng lĩnh. Trường hợp Nguyễn Văn Tường là một ví dụ điển hình.

Đến đầu năm 1873, vua triệu tán lý Nguyễn Văn Tường hỏi: “Việc ở Bắc kỳ sao mãi vẫn chưa xong?”. Nguyễn Văn Tường thưa: “Bọn giặc chỉ ở rừng sâu là nơi nước độc, lam chướng nhiều, quân ta phần nhiều nhiễm bệnh, muốn cố gắng tiến không khỏi thiệt hại, mãi để chưa xong là vì cớ ấy... Quân nước Thanh phần nhiều chiêu mộ người ven biên giới thì ra vào nơi suối rừng, xông pha lam chướng rất quen, không như quân ta phần nhiều không quen, khi vào các đường lối hiểm xa chẳng qua 5, 3 ngày liền nhiễm bệnh ngay, đánh dẹp không thể mong được việc, nên không làm cho chúng phải sợ; việc ấy bọn thần đều đã hết lòng nhưng thế không thể làm được” [57, 301].

Sáu năm ở chiến trường biên giới phía bắc, Nguyễn Văn Tường luôn thể hiện một tấm lòng yêu nước sâu sắc. Thể hiện qua hành động và còn lưu lại qua những vần thơ của ông.

Ngay từ khi mới đến Lạng Sơn ông đã xác định nhiệm vụ và thể hiện mơ ước của mình:

“Tận tiệt bỉ cừ khôi
Vô ô ngã viên bức
Dị loại tiệt tanh chiên
Lưỡng kỳ đồng quách thức”


Tạm dịch:

“Diệt hết lũ cừ khôi
Khỏi ô uế bờ cõi
Diệt loài tanh khác tộc
Nam - Bắc cùng một mối"


(Sơ đáo Lạng Sơn) [46, 25]

Ông khao khát chiến thắng:

“Hà dương đới lệ tồn lao tích
Vô phụ giang sơn cửu thiệp duyên”


Tạm dịch:

“Bao giờ sông núi ghi công trạng
Chẳng phụ non sông mấy nỗi niềm”
[46,39]

(Họa nguyên vần thơ của tri huyện An Dũng)

Ông trăn trở với việc biên giới:

“Tá trợ vô năng tàm ẩm chí
Giới mi giao ức chước xuân trường
............................
Miếu toán phương ân biên sự trọng
Tướng trù nhược định tặc tâm hàn
Kịch lân mạc tá tam thu trệ
Báo lược hà tằng triển nhất ban”
[46, 49]

Tạm dịch:

“Ăn uống sao cũng thấy thẹn thùng vì mình bất tài
Cau mày nhớ lại thời chuốc chén xuân vui vẻ đã xa
...........................
Tính việc ở triều mới lo rằng việc biên cương là trọng
Nếu tướng tính kế xong giặc sẽ không dám lăm le
Khốn nỗi kẻ giúp kế trong màn, ba năm nay không có
Tài thao lược chưa từng thi triển ra được?


(Họa nguyên vận ba bài của bố vợ gửi hỏi thăm)

Hay:

“Y thùy cấu đắc miếu lang ưu,
Tam tứ niên lai tâm sự du,
Xa mã thử hành chiêu vật độ
Thử hồ hà nhật tức khuy thu”
[46,57 ].

Tạm dịch:

“Ai kia lo dựng được miếu đường
Ba bốn năm nay lòng ngổn ngang
Xe ngựa lần này soi tỏ vật
Chuột chồn bao thuở mới thôi ngay


(Giữa đường đón tiếp quan nước Thanh)

Ông cảm nhận sự hoang tàn do chiến tranh gây ra và mong cho sự bình yên trở lại:

“Tửu kham phá muộn nại tôn hư
Tuyết sương lãnh trụy đa biên tái
Phong tỏa khôi tàn kỷ tệ lư
Vị báo đông phong tu biến tảo
Vô giao nhai cốc hoặc trì ư”
[46, 59].

Tạm dịch:

“Rượu giải sầu được nhưng chịu để chén không
Tuyết sương lạnh lẽo rơi nhiều nơi biên ải
Lửa chiến tranh thiêu trụi mấy xóm nghèo
Bảo cho gió xuân đến sớm khắp nơi
Chớ có chậm trễ ở những nơi hẻo lánh.


(Họa nguyên vận bài “Tháng chạp rét buốt” của ông Thương biện họ Đặng).

Hay:

“Thanh bình giao dã tri hà nhật
Cộng chước kỳ anh tửu nhất bôi” [46, 63 ]

Tạm dịch:

“Thanh bình thôn xóm bao giờ nhỉ
Cùng rót kỳ anh chén rượu đầy”


(Cùng thống đốc lên kỳ đài cảm xúc)

Bài thơ “Bảy lần qua sông Xương” tổng kết tình hình chiến đấu gian truân bế tắc:

“Việc đời cuồn cuộn vời con nước
Bế tắc lòng tôi đọng tợ sương”
[75, 41]

Nguyễn Văn Tường cảm nhận sự khó khăn đón đợi của những người lính chinh phu đầy lam chướng, rồi tự trách mình bất tài trong thòi buổi khó khăn.

“Bất tài huống thả phùng đa sự
Ngạnh đoản tiên trường chỉ tự thương”
[46, 53]

Tạm dịch:

“Không tài lại gặp lúc đa sự
Cành ngắn roi dài chỉ tự đau”.


(Gửi bang biện quân vụ họ võ)

Cho dù đến lúc Nguyễn Văn Tường trở lại Huế để [vào Gia Định - bt.] tham gia giải quyết vụ J. Dupuis thì tình hình biên giới bọn giặc Khách vẫn chưa bị tiêu diệt, nhưng những gì ta thấy qua hoạt động cũng như qua thơ văn của Nguyễn Văn Tường trong thời gian ấy, đó là tấm lòng yêu nước sắt son, luôn đau đáu lo cho dân cho nước. Đó cũng là tâm hồn nhạy cảm của một vị nho quan hết mình tận tụy không chút lòng riêng, rất đáng trân trọng.

2.3. Từ Giải quyết vụ J.Dupuis đến Tự Đức mất (1873 - 19/7/1883)

Nguyễn Văn Tường là người có tài về ứng đối. Ngay từ lúc còn làm khâm phái Sơn phòng Quảng Trị, ông đã được điều đi Gia Định thương thuyết với Pháp. Sau đợt này ông đã có sớ tâu bày về tình hình và biện pháp giữ đất như đã nói ở phần trước.

[Tháng 6, Canh ngọ, TĐ. 23 - bt.] (1870), lúc còn làm tán lý ở biên giới phía Bắc, ông lại có sớ tâu về việc xin xếp đặt công việc về sau, rất khúc chiết: “Nam Kỳ, Bắc Kỳ là đất căn bản của nước, theo sự thế trong Nam nên tính thư thả, nên trước hết giữ Bắc Kỳ, cho là việc cần giữ phên giậu ở Cao Lạng, Thái Nguyên, giữ rừng biển ở Đông Tây, Nam Bắc. Hà Nội ở giữa là nơi hình thế danh thắng trong khi vô sự nên phải rất chú ý, huống chi giặc trốn coi thường chiến tranh còn nhiều đứa lọt lưới, giặc trước về Tàu, gián hoặc nuối tiếc sào huyệt, chưa nên cho là việc đã yên mà bỏ qua, hiện nay kho tàng công tư đáng phải thương xót, sức lực quân dân cũng phải gọi là đã kiệt, đợi đến lúc ấy sợ không có cách gì. Người đảm đương công việc thường hay cẩu thả, hình như không để ý tới, bỗng chợt có biến, chỉ lấy quân nhát dân ngu tự gỡ, ai chịu các lỗi đã làm cho dân nhọc, dân oán? Muốn tâu bày thắng tệ ấy thì không thể xiết được. Người xưa có nói, “được một quan huyện tốt hơn là 3.000 quân tinh nhuệ, được một quan phủ tốt hơn là ba vạn quân tinh nhuệ” là vì không có chính sự hà khắc thì không có phản nghịch lớn, xin chọn quan văn võ là người thanh liêm tài giỏi, Đông Tây Nam Bắc mỗi tỉnh hai người sung làm tổng đốc, lại giao cho 500 quân tinh nhuệ (lính thú mỗi tỉnh đường ngoài 500 tên, nửa lính kinh, nửa lính Thanh - Nghệ). Ở Hà Nội thì lấy quan đại thần có lòng công bằng trung trực, biết xếp đặt việc nước, uy vọng lớn rõ rệt như quan võ Nguyễn Tri Phương sung làm kinh lược đại sứ, giao cho 2.000 quân tinh nhuệ để lo việc đàn áp. Các tỉnh ở Bắc kỳ việc chỉnh lý bờ cõi, đốc thúc việc binh, xét hỏi quan lại, vỗ yên dân, đều ủy cho đại sứ chuyên việc trông coi. Qui chế cũ ở Hà Nội cũng nên theo thời sửa đổi, như thế quan chính đính thì chẳng ai dám không chính đính, mà trung châu thế mạnh đủ trấn áp bọn gian, các tỉnh ven biên giới mới được tính dần công việc xếp đặt về sau, đợi một vài năm công việc được xong, quân có nên rút, do các quan đại sứ xét nghĩ thi hành. Không thế thì đại binh hát ca thắng trận trở về chưa khỏi lại phải chú ý xếp đặt khó nhọc lần nữa. Không dám nói hết, làm tăng sự ngày đêm lo nghĩ của hoàng thượng” [57, 31].

Xét việc tham gia các ý kiến tâu bày khúc chiết, có tầm nhìn chiến lược, sâu sắc, vua Tự Đức đã tin dùng Nguyễn Văn Tường vào công việc thương thuyết. Tháng [11, Nhâm thân, TĐ. 25 - bt.] (1872), J. Dupuis - một lái buôn người Pháp, dựa vào thế lực chính trị Pháp ở Nam kỳ - đã gây rối dọc sông Hồng, tạo điều kiện cho Garnier mang quân ra lấy cớ là dàn xếp nhưng thực chất là để chiếm luôn Bắc kỳ.

Trước tình hình đó Nguyễn Văn Tường được triệu về kinh. Tán lý Nguyễn Văn Tường được mang hàm tham tri, làm phó sứ, cùng với chánh sứ Lê Tuấn và tham biện Nguyễn Tăng Doãn, đến Gia Định thương thuyết với toàn quyền Pháp Du-bi-lê (Dupré) để hội định hòa ước.

Tới Gia Định, sứ thần ([Nguyễn Văn - bt.] Tường, [Lê - bt.] Tuấn) bảo rằng: “Hòa ước mới này có thể định được nhưng hiện nay việc ở Bắc Kỳ quyết liệt xin xử trí giúp cho xong sớm, định ước mới tốt” [57, 312 ]. Tướng Pháp viết thư ngay cho Garnier phải rút để cho quan ba vào thành làm việc. Sau đó, vua Tự Đức sai Nguyễn Văn Tường làm khâm sai đại thần đến Hà Nội cùng với Hắc Đạo Sinh (Philastre) để bàn [57, 344] .

“Nguyễn Văn Tường cùng Philastre đáp tàu đi Hà Nội, đến cửa sông Cấm (Hải Phòng) thì được tin báo Garnier và một viên quan một, một viên quan hai đều bị giết chết. [Bọn Hoắc Đạo Sinh - bt.] (Philastre) [và quan trên thuyền ấy đập tay - bt.] tức giận bảo với Nguyễn Văn Tường rằng: “Việc không xong được, phải báo ngay cho tướng ấy không ở lâu”. Nguyễn Văn Tường thấy chúng khí giận đương bốc lên mới thong thả nói rằng: “Việc ở Hà Nội, tướng của quý quốc bảo là không phải bản ý mà lấy sức quân 4 tỉnh, nước tôi cũng không cùng tranh, thế là hai bên cùng không trái. An Nghiệp chết hoặc bởi bọn cướp khác, hoặc bởi sĩ dân nổi giận, việc chưa rõ ràng, căn cứ vào đâu mà vội báo, huống chi trả lại thành để sớm định điều ước là lệnh của quý tướng, lấy lại thành rồi mới nghị hòa là lệnh của vua nước tôi, bọn chúng ta chỉ biết theo mệnh lệnh ấy. Còn như Hà Nội giết An Nghiệp cũng như An Nghiệp giết Nguyễn Tri Phương, đó đều là do sự không ngờ, cũng không phải là bọn chúng ta làm ra, nay chưa từng thân đến chỗ ấy, mà chỉ nghe tin báo không đâu, chẳng những quí tướng tính xa không thể được mà mà bọn chúng ta đi lần này thật có phụ. Sao bằng đưa thư ngay cho Hà Nội, lập tức phái tàu thủy nhỏ đến cho tiện đi đến nơi, nếu được theo mệnh lệnh hội bàn, rất tốt, hoặc được hỏi rõ chuyện do An Nghiệp bị chết rồi sau sẽ báo há chẳng càng tốt ư” [57, 355].

”Philastre và quan ở tàu ấy nghe theo, liền gửi thư cho Hà Nội biết để làm việc. Lúc ấy có tàu Đê-ta-di (Decrès) từ bắc về, Philastre muốn sang tàu ấy, để tàu mình đi là Đát-Tờ-Di (D’Estrées) trở về Sài Gòn báo tin. Nhưng Nguyễn Văn Tường ngăn lại: “Tàu của quí quốc đã tiến vào lại lui ra sĩ dân nghe thấy tất bắt chước việc Hà Nội đã làm thì ai ngăn cấm được, sợ sau này lại hại lắm, thì trả lời tướng của quí quốc ra sao? Nay nên cho tàu Đề-Ta-Di ra biển, đón chặn giặc biển, còn tàu vẫn đi trước nên chạy đến Hải Phòng, bọn ta đến ngay Hải Dương trước giao trả thành ấy, hiểu thị, niêm yết cho sỹ dân biết để tỏ ra thực thà và hòa thuận, rồi sau tiến đến Hà Nội giao trả hết các thành và hỏi chuyện lo việc An Nghiệp, báo cả một thể mới là kế hoàn toàn” [57, 357]. Philastre nghe theo bèn định ngày chạy đến Hải Phòng dẹp trừ giặc biển. Đến Hải Dương, ngụy tổng đốc (tên là Trương) mưu bắt Nguyễn Văn Tường để phá hỏng việc, nhưng Nguyễn Văn Tường dò biết, mật bàn với quan Pháp giải đưa xuống tàu giam lại rồi tin cho các tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên đem quân đến để bảo vệ. Đến ngày 12, tỉnh thành Hải Dương được giao nhận”.

Mặc dù cuộc thương thuyết bị bọn Dupuis và Puginier tìm mọi phá hoại nhưng Philastre vẫn phải hạ lệnh trả lại các thành. Ngày 15, tàu đến Hà Nội, bàn giao trả Nam Định, Ninh Bình. Nguyễn Văn Tường điều các quan về sắp xếp trấn trị. Trần Đình Túc quyền tổng đốc Nam Định, Nguyễn Trọng Hợp quyền biện Ninh Bình, thành Hà Nội giao cho bố chánh Trương Gia Hội quản trị.

Ngày 6 / 2 / 1874, Nguyễn Văn Tường cùng Philastre lập một tờ hiệp định, đại lược như sau: “Tàu Pháp lui xuống ở Hải Phòng, tàu thuyền tàu thuyền và lính tráng của J. Duy-puy cũng buộc phải xuống ở đấy, đợi đến ngày Bắc Kỳ khai thương sẽ hay. Nếu y muốn đi đường thủy lên Vân Nam thì cũng cho, nhưng tàu thuyền súng ống mang theo phải đúng như số đã định trong hiệp định này, y gặp giặc thì tự mình xoay trở lấy và không được trở lại Bắc kỳ trước khi sông Hồng khai thương, còn nếu y muốn đến ở một nơi nào khác trong nước thì quan Pháp phải đuổi đi” [dt., 39, 41].

Sau thành công của cuộc thương thuyết, Tự Đức khen Nguyễn Văn Tường là: “châm chước thời cơ làm việc khéo” [57, 358], giao cho Nguyễn Văn Tường chức phỏng định thương ước toàn quyền đại thần chiếu nhận định ước. Tuy nhiên việc giao trả thành chưa ổn lại xảy ra những xung đột lương - giáo, giặc “dân gian". Tự Đức lại mật dụ cho Nguyễn Văn Tường “phải khéo xử cốt để chóng yên... Người có tiết nghĩa phải ghi, kẻ bội nghịch phải giết, theo thứ tự làm cho thỏa đáng, cho hết kẻ phản trắc” [57, 363].

Lúc ấy, Lê Tuấn và Tăng Doãn có thư nói Philastre sẽ về Tây, Rheinart sang thay, giục Nguyễn Văn Tường đi để kịp định ước. Vua ban dụ cho 2 người phải chờ được Nguyễn Văn Tường vào.

“Bất nhật thống sát nước ấy cùng Nguyễn VănTường trở về Gia Định tức thì bọn các ngươi bàn nghị cho thỏa đáng; các ngươi nên đợi thêm ít lâu Nguyễn Văn Tường đến nơi, cùng nhau bàn bạc châm chước, làm thành điều ước” [27, 240].

Qua dụ này cho thấy, trước triều đình Tự Đức, Nguyễn Văn Tường đã trở thành công thần có công lớn trong việc thu hồi 4 tỉnh Bắc Kỳ và còn nuôi hy vọng lấy lại Nam Kỳ.

Xét trong cục diện bối cảnh ấy mà nói, đất Bắc kỳ mà Garnier chiếm được thật không thể giữ lâu hơn, mà triều đình thì lẽ cố nhiên là muốn thu hồi càng sớm càng tốt. Nhà sử học Phan Khoang từng viết: “Bên ta có người khen Văn Tường, Trần Đình Túc khéo thương thuyết, nên thu lại 4 tỉnh Bắc kỳ, nhưng ta đã thấy, chính phủ Pháp chưa muốn lấy Bắc kỳ, Garnier bị giết làm cho Dupré hoảng hồn còn đâu lo đến việc xâm chiếm. Tuy vậy, cũng như phần đông các đình thần lúc ấy, hai ông đã dùng hết cơ mưu, để hết tâm trí mà lo việc nước, gặp lúc khó khăn mà bình tĩnh, nhẫn nhục như ông Túc, đối đáp khôn khéo như ông Tường thì cũng là hạng người có tài vậy” [57, 369].

Phía Pháp, Rheinart viết: “Philastre ra tới Bắc Kỳ với ý định dứt khoát là lập tức trả lại những thành trì mà Françis Garnier đã chiếm được. Sứ thần Nguyễn Văn Tường chỉ phải mệt nhọc là nhận những thành đó từ tay phái viên Pháp. Nhưng khi trở lại Huế, Tường tuyên bố rằng thành công là nhờ vào vũ khí khéo léo và sức thuyết phục của mình, rằng Tự Đức đã chịu ơn khi thâu hồi lại các tỉnh Bắc Kỳ trong một thời gian đã tưởng là mất. Giả thuyết ấy đã được người ta tin và làm cho Tường, kể từ năm 1874 trở thành nhân vật ảnh hưởng nhất triều đình Huế. Được coi như con người dũng mãnh đã làm cho pháp phải nhả Bắc Kỳ, nay tường cũng được coi như người làm cho Pháp phải nhả nốt Nam Kỳ” [dt., 71, 307].

Trở lại Huế Nguyễn Văn Tường cáo ốm xin cho người thay (thực chất đã bị bệnh lúc còn ở Hà Nội). Vua bảo rằng “Ước mới với sứ nước Pháp chưa định, điều trẫm rất lấy làm lo; người làm việc sứ thần, phải mưu tính về sau”. Tự Đức đặc cách ban cho sâm quế, sai ngự y điều trị để cùng đi với Philastre.

Sau đó Nguyễn Văn Tường lại đến Gia Định cùng với Lê Tuấn và tướng nước Pháp định hiệp ước ngày 15 / 3 / 1874 [Giáp tuất - bt.]. Hòa ước mới được định xong giữa Nguyễn Văn Tường, Lê Tuấn và Dupré, [có điều khoản - bt.] rằng: “Nay vua nước Đại Nam và vua nước Pháp cần muốn kết lời thề hòa hiếu hòa thuận bền chặt để cho hai nước được giao thiệp với nhau lâu dài, nhân đó cùng bàn nên định ước mới kết giao để thay thế điều ước đã định ngày 05 / 6 / 1862 [Nhâm tuất - bt.]”. Hòa ước mới gồm có 22 điều khoản. Giáo sư Đinh Xuân Lâm nhận xét: “Với hòa ước này, phong kiến triều Nguyễn chính thức dâng toàn bộ đất đai Nam kỳ cho thực dân Pháp, công nhận quyền đi lại, buôn bán, và điều tra tình hình của chúng ở Việt Nam... Hòa ước 1874 báo trước thực dân Pháp nhất định sẽ quay trở lại chiếm hẳn Hà Nội khi thời cơ tới” [30, 44].

Như vậy, đứng trước những khó khăn chồng chất ngày một lớn, Pháp đã tạm nhả Bắc Kỳ để tìm các điều khoản có lợi trong hòa ước mới, còn triều đình Huế lấy lại được Bắc Kỳ lại là thắng lợi ngoài mong đợi về cả thời gian và sức lực. Qua đó “củng cố” niềm tin về sự “thương thuyết” có thể thành công, những nhượng bộ trong hiệp ước chính là hệ quả của “niềm tin” đó. Đại diện thương mại Pháp H. Cosserat xem đây là hòa ước “tài tình”’, ông viết: “Việc gửi sĩ quan Pháp sang An Nam theo yêu cầu của chính phủ An Nam là thi hành các điều khoản 3 và 4 của hòa ước tài tình vào 15/3/1874. Sự kiện này ít biết đến” [12, 329].

Sau thành công thu hồi 4 tỉnh Bắc Kỳ và việc ký hòa ước mới, tháng 5 / 1874, Nguyễn Văn Tường được khen thưởng, với hàm tham tri, phó sứ, đặc cách làm thượng thư Bộ Hình, sung Cơ Mật viện đại thần, tấn phong tước Kỳ Vỹ bá [58, 58].

Kế đó Nguyễn Văn Tường và Nguyễn Tăng Doãn đều sung toàn quyền đại thần đến Gia Định bàn định thương ước. Ngày 31 / 8 / 1874 (20 / 7 âm lịch), thương ước ra đời với 29 điều khoản. Thương ước có đoạn viết: “Thuyền buôn nước Đại Thanh chở hàng hóa ra vào, về hàng cấm, thuế quan phải chiếu theo hàng hóa được tải ra vào của các hiệu thuyền nước Tây và Tân thế giới theo nộp như nhau. Duy thuế phải nộp của các thuyền buôn nước Đại Thanh và nước Đại Nam là bao nhiêu đều thuộc về quan ở thuế quan nước Đại Nam thu cất riêng” [58,103].

Đầu năm 1875 [tháng 3 Ất hợi, TĐ. 28 - bt.], việc định khâm sứ nước Pháp đóng ở kinh (14 khoản), vua Tự Đức giao cho Nguyễn Văn Tường nghĩ định. Tiếp đến vua đổi Nguyễn Văn Tường từ thượng thư Bộ Hình sang thượng thư Bộ Hộ, vẫn sung đại thần quản lý công việc Thương bạc.

Tháng 7 {Ất hợi, TĐ. 28 - bt.] (1875), Nguyễn Văn Tường, Phạm Ý với các chánh khâm sứ nước Pháp là De [viết hoa theo quy tắc chính tả tiếng Việt - bt.] Champeaux, phó khâm sứ Rheinart cùng giao Hòa ước (22 điều) cho nhau ở sân dưới lầu Ngọ Môn. Tới ngày 29 / 8 / 1875 Nguyễn Văn Tường lại cùng khâm sứ Rheinart giao thương ước (29 khoản) cho nhau ở dinh Nha Thương bạc. Rheinart là đặc phái viên của Pháp ở Huế đã lâu, thấu triệt và đã rõ “triều đình Huế chẳc chắn cũng hối hận phải nội thuộc nước Tàu, nhưng tôi chắc chắn rằng họ thà trở thành một tỉnh của nước Tàu còn hơn là nhận ta bảo hộ, mặc dù cho họ nhiều lợi ích và để họ tự chủ trong việc cai trị; người Tàu là chú hoặc anh, còn chúng tôi là mọi rợ; chế độ Tàu sẽ thay đổi rất ít đến tập tục của các quan lại An Nam, còn phụ thuộc ta là một điều nhục nhã còn khó chịu hơn là tự tử” [27, 363].

Có thể nói một cách không thể bào chữa rằng, với 22 điều hòa ước và 29 điều trong thương ước, thì nước ta đã bị buộc chặt vào Pháp. Những người có tâm huyết như Nguyễn Văn Tường trong bối cảnh ấy đã cố gắng với mọi cơ mưu để giảm bớt sự lệ thuộc trong quan hệ với Pháp, như mùa thu năm 1874 Nguyễn Văn Tường có sớ tâu:

“Khâm sứ và lãnh sự cùng đặt ở với nhau là để bàn công việc, thông tình hiếu. Nhưng xem các nước Tây phương đi lại hòa hợp tiếng nói chữ viết cùng thông, lại có điện báo để thông tin tức, nếu ta giao thiệp với nước ấy chỉ dựa vào giấy tờ, một khi phiên dịch sai đi lại sinh không hợp thì đặt khâm sứ ở kinh đô nước Pháp không có cách gì, nếu đặt sứ ở Gia Định thì ngang hàng với kinh đô, chưa là thỏa đáng, hoặc chỉ đặt lãnh sự thì phẩm trật danh vọng thấp kém, theo tục nước Tây không được dự bàn công việc, nghị đặt một viên khâm phái sung lãnh sự ở Gia Định, lại đặt thêm một viên phó lãnh sự để giúp ủy làm việc, thần trước phụng mạng đi sứ đã từng thương thuyết với tướng ấy ý hợp, nếu được chuẩn cho, xin giao cho đình thần dự chọn và nghĩ làm công việc” [58, 106].

Vua nghe lời.

Về buôn bán Nguyễn Văn Tường cũng đã nhiều lần có sớ tâu bày với Tự Đức, khuyên nên mở rộng buôn bán, tự do thông thương, phát triển quan hệ giao lưu với cả người Thanh và người Pháp. Ông đề nghị lập chợ, mở hội buôn, trao đổi hàng hóa. Bản tấu năm 1874 [thể hiện - bt.] một phần tư tưởng đó:

“Người nước Pháp yêu cầu ở Hà Nội vì có người buôn nước Thanh tụ họp ở đấy nhiều. Người buôn chỉ chỗ nào có lợi là chạy đến, dời đi bất thường. Nay mở chợ chứa hàng hóa, làm nhà, chiêu mộ người buôn ở sông Cấm, cửa Ninh Hải, khiến cho thành chỗ buôn bán vui vẻ, người buôn nước Thanh đã về ở đấy, thì người buôn nước Tây không còn bỏ chỗ ấy mà đi tìm chỗ khác. Xin mật tư cho 2 tỉnh Hà Nội, Nam Định, sức cho tất cả các người buôn trong hạt, nếu có tình nguyện làm nhà buôn ở cửa Ninh Hải thì hạn trong 3 tháng đều đầu đơn ở quan tỉnh Hải Dương xin làm nhà mở chợ ở hai bên bờ sông Cấm từ đồn Ninh Hải trở lên. Lại xin sắc xuống cho đình thần hội đồng chọn người trông coi việc buôn, để cho được việc” [58, 110].

Vua cho là phải.

Không chỉ quan tâm đến việc ngoại giao buôn bán, Nguyễn Văn Tường còn quan tâm đến tiềm lực đất nước đã đến buổi suy vi. Ông hướng ra phương Tây với những điều mới lạ và tiến bộ. Lần trước khi sang Pháp về, ông đã dâng cho Tự Đức 20 tập sách “chữ Tây”, lần này từ Gia Định về ông đã dâng vua những khẩu súng Tây. “Vua khen là nhạy lắm, có thể dùng được, sắc cho giữ cẩn thận để phòng sai phái" [58, 111]. “Thực lục” còn ghi: “Trước đây bọn Nguyễn Văn Tường tâu, súng nhỏ đạn chạy ria, phỏng giá bạc 202 đồng, nếu được chuẩn cho mua, xin chọn ở quân Thần cơ, Cảnh tất, hơi am hiểu phép bắn đến Gia Định học tập cho thạo kỹ mới có thể mua dùng được”. Vua theo lời [58, 116].

Thái độ Nguyễn Văn Tường đối với người Pháp được thể hiện nhất quán qua các bài tấu ngày 23 / 3 Mậu Thìn (1868), ngày 6 / 2 / 1868, ngày 10 / 8 / 1873. Ví như tấu ngày 06 / 02 / 1886 có đoạn: “Người Tây xảo trá trăm mối, việc nghe đoán càng phải thận trọng”, hay: “Bọn Tây dương tính tham lam, chấp theo điều lợi, ấy là tìm được rồi lại sợ mất đi, thật là khó lấy nghĩa lý trí thuật làm lay chuyển nó nghe theo” [47, 212], hay tấu ngày 10 / 8 / 1873 cũng nói: “Trộm xét các nước Tây phương chuộng công lợi mà tham lam xảo quyệt, mà nước Phú, nước Anh là nhất; các nước thuộc về phương Đông ta, gặp lúc này khó tiến. Đại Thanh, Nhật Bản, Cao Ly, Xiêm La, Cao Miên, Miến Điện đều bị họ lộng hành, ta lần này cũng thế” [74, 212].

Qua những lời tâu trên cho ta thấy Nguyễn Văn Tường có cái nhìn rất thực tế, không cao xa như những tư tưởng cải cách canh tân của những nhà tư tưởng thời đó như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Thạch, Phạm Phú Thứ... mà Tự Đức từng thốt lên: “Nói sao mà cao xa quá”.

Theo Tsuboi, từ năm 1874, Nguyễn Văn Tường là người “ảnh hưởng nhất triều đình Huế” và từ đây, với tư cách là đại thần [bỏ 2 chữ "toàn quyền" - bt.] của Tự Đức, ông can dự vào mọi cuộc đàm phán Việt và Pháp, Tường thương thảo với các đại diện Pháp tại Huế là Rheinart và Philastre. Tuy tiếp xúc thường xuyên với người Pháp, Tường luôn tỏ ra chống đối họ, nếu người ta tin vào nhận định của một trong những người đối thoại chính với ông là Rheinart: “Trở thành người đứng đầu phe cứng rắn, chính Tường đã xúi giục Tự Đức coi thường hiệp ước năm 1874, do đó làm cho mối quan hệ Việt - Pháp suy thoái dần” [71, 307].

Đó là một trong những nhận định xác thực của Y. Tsuboi.

Ở đây chúng tôi cũng xin trích dẫn vài dẫn chứng về vấn đề này của chính người Pháp: “Thương bạc hay là Bộ Ngoại giao mong muốn công sứ Pháp đặt bản dinh càng xa thành phố càng tốt. Những yêu cầu của ông Rheinart đều bị bác bỏ. Khi thì đất này thuộc của vua hoặc là thuộc một người trong hoàng tộc, khi thì đất được dành cho một công trình xây dựng tưởng tượng gì đó. Thương bạc đề nghị những nơi bị ngập nước về mùa mưa hoặc là ở làng Vân Dương nằm ở hạ lưu Tòa Khâm hiện nay, hoặc ở một nơi khác nào đó” [16, 32]. Rheinart cũng thừa nhận: “Tôi đã gặp nhiều khó khăn với triều đình Huế và từ thuở ấy ông thượng thư Bộ Hộ [Nguyễn Văn Tường - LTC.] rất có uy tín với vua đang hận thù đối với tôi sau nhiều chuyện rắc rối xảy ra giữa chúng tôi” [16, 48].

Về việc trong nước, thời gian này ngoài việc đàn áp cuộc nổi dậy của Văn thân sát tả năm 1874 ở Nghệ - Tĩnh thì công việc của Nguyễn Văn Tường tương đối thầm lặng, làm theo chức trách của mình. Thỉnh thoảng Tự Đức sai làm một số việc như làm giám khảo, chấm thi... Ngoài ra ông còn làm một số việc như: xin đặt kinh lý sơn phòng Quảng Trị (8 / 1875) vì ông cho rằng: “Đồn Trấn Lao, Thành Hóa giáp với Long Giang, đất tốt lợi nhiều, có thể khống chế, trước [đây] vâng lệnh kinh lí nhưng không chuyên trách sau không thành công, xin châm chước công việc sơn phòng ở Sơn Tây: đặt sơn phòng để được thực tế” [58, 225]; đề nghị được chấp nhận.

Mùa [thu, tháng 8, Bính tí, TĐ. 29 - bt.] (1876), Nguyễn Văn Tường thương thuyết với sứ Pháp Rheinart xin cho một đốc công hoặc một tên lính [nắm vững kĩ thuật súng ống - bt.] đi đến chỉ bảo phương pháp bắn ở Thuận An. Rheinart đã phái một tên lính là Nê-cô đi theo, cùng đến trường bắn [58, 313].

Thời gian này Tự Đức cũng nhiều lần thăng thưởng cho Nguyễn Văn Tường. Năm 1880, là hiệp biện đại học sĩ. Ông học rộng biết nhiều lại là người bôn ba khắp các xứ, tiếp xúc nhiều đối tượng. Vì vậy, ông không tránh khởi những lời gièm pha, nghi kị. Năm 1880 Nguyễn Văn Tường xin đổi từ thượng thư bộ Hộ sang bộ khác vì lời gièm pha của Tôn Thất Thuyết: “Thuyền nước khác mang đến hết lòng xin giúp, lại nói cùng người chia lợi, mọt nước hại dân, lại ở kinh đô đồn rằng là Nguyễn Văn Tường nhận nhiều của lót, tâu xin bỏ cấm”. Tự Đức dụ rằng: “Thuyết ít học không thông, lại có tật nóng nảy, nói càn, sao đáng kể, lời đồn ở kinh đô cũng không căn cứ, người xưa không thể dẹp được lời gièm pha cho nên nói “cứu rét không có gì bằng mặc 2 lần áo cừu, dẹp lời gièm không có gì bằng tự phải tu tỉnh”. Nguyễn Văn Tường từ lúc giữ việc ở Bộ Hộ đến giờ, có phần hết lòng trù tính, thuế khóa của nước có lợi hơn lên, đương lúc phải giữ đà về quân nhu bận rộn đều được ổn thỏa cả. Trẫm đương trách ủy cho làm có thành hiệu sao được tự đẩy đem thoái thác” [59, 370].

Nguyên những năm 60, 70 của thế kỷ 19, khi triều đình Huế liên tiếp ký với Pháp những hiệp ước nhượng đất và bỏ cấm đạo thì từ khắp nơi lại nổi lên phong trào “bình tây sát tả” của Văn thân, nhất là ở vùng Nghệ - Tĩnh, nội dung kêu gọi giết đạo và đánh cả triều lẫn Tây (khẩu hiệu: “Phen này quyết đánh cả Triều lẫn Tây”). Các Văn thân tụ tập được hàng ngàn người, kéo nhau đi đốt phá các làng đạo. Đối với họ những người theo đạo là “người Pháp nội công”, đạo là Pháp và nếu như bọn có đạo [Thiên Chúa giáo – bt.] bị tiêu diệt thì người Pháp cũng bị tiêu diệt hoàn toàn.

Triều đình thấy nguy nên đã cử Lê Bá Thận, Nguyễn Văn Tường [từ Huế tiến ra – bt.], [Tôn Thất Thuyết, Trương Văn Đễ từ phía Bắc tiến vào – bt.], đem quân đi đánh dẹp 4 tháng mới xong. Một số ý kiến lên án Nguyễn Văn Tường, [Tôn Thất Thuyết – bt.] đã đàn áp Văn thân khởi nghĩa, nhưng xét trong cục diện ấy mà nói, Văn thân đã gây nên những cản trở lớn trong ý đồ của triều Nguyễn là muốn thương thuyết với Pháp.

Mặt khác cũng chưa hẳn là như thế, bởi Rheinart đã từng than phiền với Thương bạc về việc lôi kéo Văn thân [là - bt.] do Hoàng Kế [= Tá - bt.] Viêm và báo cho thống đốc Sài Gòn những mối lo ngại của ông về việc “Sĩ phu Nghệ An và Hà Tĩnh chịu sự thúc giục ngầm của quan lại ở Huế" [16, 47].

Về việc này giáo sư Trần Văn Giàu cũng có một nhận định rất xác đáng: “Không thể chối cãi rằng phong trào 1874 ở Nghệ - Tĩnh là phong trào yêu nước do văn thân khởi xướng. Nhưng cũng không thể chối cãi rằng các nhà văn thân yêu nước đã làm những điều rất sai chính trị khi họ xem việc “sát tả” là điều kiện thứ nhất của việc “bình Tây”, không biết phân biệt giáo dân bình thường và những giáo sĩ làm tay sai cho giặc Pháp” [19, 369].

Mùa xuân tháng giêng [Tân tị, TĐ. 34 - bt.] (1881), “Vua cho là hiệp biện đại học sĩ Nguyễn Văn Tường kiêm nhiều chức, bận nhiều việc, cho giảm bớt công việc Nha Thương bạc” [59, 6]. Việc này, tác giả Y. Tsuboi đưa ra một tư liệu mới:

“Việc Tường bị bãi chức Thương bạc chính là do De Champeaux, đại diện của Pháp hồi 1881, đã tích cực có sáng kiến làm áp lực trên Trần Tiễn Thành, nhân vật đầu triều. Một tài liệu chưa hề được công bố kể rõ việc vận động như sau: “Hôm qua tôi đã tiếp kiến với quan Thương bạc, ông đến báo cho tôi biết là ông đã từ chức thượng thư ngoại giao... Tôi không ngờ việc vận động nhỏ của tôi chống thượng thư đó lại có kết quả nhanh đến thế... Vì thấy rằng không thể mở rộng các mối quan hệ chính trị nếu cứ phải giao thiệp với quan Thương bạc mãi, tôi đã nghĩ phải buộc ông ta từ chức và thay ông ta bằng người ít chống đối ảnh hưởng của ta hơn... Quan Thương bạc vẫn còn là thượng thư Bộ Hộ và thứ trưởng Viện Cơ mật. Với tư cách sau, ông vẫn còn có thể chống đối chúng ta. Muốn thoát nạn, ta còn phải đập ông tan tành cả ở phía ấy”” [71, 308].

Mùa hạ tháng 6 [Quý mùi, TĐ. 36 - bt.] (1883), Nguyễn Văn Tường được sung làm phụ chính đại thần bên cạnh Trần Tiễn Thành và Tôn Thất Thuyết, Tự Đức nêu rõ: “Bọn Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết cùng ta gặp biết, tuy có sớm muộn hơi khác mà lòng trung thành yêu mến chăm lo như một, từng làm việc nơi cơ yếu đã lâu, thân được chỉ bảo, nếu có gặp việc khó khăn cũng giải quyết được, vậy cho Trần Tiễn Thành sung làm phụ chính đại thần, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết cùng sung là phụ chính đại thần. Bọn ngươi nên nghiêm sắc mặt đứng ở triều đình, giữ mình cho đúng đắn, đốc sức quan thuộc, mọi việc cùng làm cho thỏa đáng. Trên giúp vua nối ngôi điều không biết đến, dưới chữa chỗ lệch lạc cho các quan để nước yên như núi Thái Sơn, thế là không phụ sự ủy thác’’ [60, 200].

Đúng vào lúc Nguyễn Văn Tường được sung làm phụ chính đại thần thì tình hình đất nước bước vào giai đoạn cực kỳ khó khăn phức tạp. Pháp đã đánh chiếm Bắc Kỳ từ tháng 4 / 1882; trong nước phong trào kháng Pháp dâng cao. Ở triều đình đã có sự phân hóa sâu sắc giữa hai phái chủ chiến và chủ hòa, luôn đấu tranh, âm mưu loại trừ, gây ảnh hưởng lẫn nhau, chỉ chờ có cơ hội là bùng nổ xung đột bằng bạo lực. Và thực tế, sau cái chết của vua Tự Đức, ngày 19 / 7 / 1883, là những tháng ngày đen tối nhất của lịch sử dân tộc.

2.4. Nguyễn Văn Tường từ 19 / 7 / 1883 đến 5 / 7 / 1885

2.4.1. Phụ chính Nguyễn Văn Tường với việc phế lập trong triều đình Huế


Vua Tự Đức không có con nên đã nhận 3 người của em mình làm con nuôi. Đó là Ưng Chân (con của Thoại Thái vương Hồng Y), Ưng Đăng và Ưng Kỷ (con của Kiến Thái vương Hồng Cai). Trước khi vua mất, Tự Đức đã để lại di chiếu lập con trưởng là Ưng Chân (Dục Đức) lên nối ngôi. “Thực lục” ghi: “Trước vua tự hạ tuần tháng tư, hơi yếu, vài ngày dần khỏe, cố sức làm việc, đến 14 tháng ấy là ngày nhâm tuất, tuyên triệu Cơ mật viện đại thần Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết vào chầu ở trong cung, chính tay phê vào di chiếu cho hoàng tử trưởng Thụy Quốc Công nối ngôi” [60, 198]. Trong di chiếu, Tự Đức cũng có nêu một số khuyết điểm của Ưng Chân và dặn dò phải sửa đổi để làm tròn cương vị một vị vua: “Trẫm nuôi sẵn ba con, Ưng Chân cố nhiên là học lâu trưởng thành, chính danh đã lâu nhưng mắt hơi có tật, giấu kín không rõ ràng, tính lại hiếu dâm, cũng rất là không tốt, chưa chắc đương nổi việc lớn, nhưng nước cần có vua nhiều tuổi, đương lúc khó khăn này không dùng hắn thì dùng ai? Sau khi trẫm muôn tuổi nên cho hoàng tử Thụy quốc công Ưng Chân nối nghiệp lớn, lên ngôi hoàng đế, (ngươi nên nhớ sáng nghiệp thủ thành đều khó khăn, nối theo không dễ, không dám bừa bãi chút nào, chỉ mong được việc không thẹn với việc trời)” [60, 199].

Về việc này, Y. Tsuboi cũng viết: “Nhà vua đã muốn chỉ định con nuôi thứ ba là Ưng Đăng nối ngôi, vì ông cho rằng người này có khả năng nhất, và nếu như dựa vào chính sử và những tài liệu chưa được công bố, ông từng coi Ưng Đăng là kẻ thừa kế, tuy nhiên vào phút chót, ông thay đổi ý kiến và chọn con nuôi trưởng tức là Ưng Chân dù người này không hội đủ đức tính làm vua” [71, 343].

Việc Tự Đức chọn Ưng Chân cũng làm cho Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết không ngờ: “Văn Tường nghĩ là hoàng trưởng tử không được lập lên làm vua mới khinh thường hoàng trưởng tử [về tư cách đạo đức, quan điểm chính trị - bt.] mà chỉ để tâm đến hoàng tử thứ ba, đến nay tờ chiếu cho nối ngôi lại là hoàng trưởng tử, Văn Tường trong lòng không yên, Thuyết cũng không bằng làng với tự quân” [50, 205].

Trước ngày đăng quang, Ưng Chân "nghĩ trong di chiếu răn bảo có những lời không tốt, không thể truyền bá cho mọi người cùng nghe". Vì thế triệu các Phụ chính đại thần xin bỏ bớt đoạn ấy. Trước yêu cầu đó, Trần Tiễn Thành bảo: “Thế cũng ổn”. Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết thì thưa: “Xin nhà vua tự quyết định” [60, 207]. Vì thế Ưng Chân cho rằng, hai người cũng bằng lòng bèn “sai sao tờ di chiếu tự tay xóa bỏ đoạn ấy đi” [60, 207]. Vì vậy, nói như Trần Trọng Kim rằng: “Được ba ngày, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đổi tờ di chiếu” [29, 310] là không đúng với thực tế mà “Đại Nam thực lục” đã ghi. Ở đây, xóa bỏ một đoạn di chiếu chính là nguyên cớ để Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết phế vua mới.

Lại gặp lúc “tự quân ở điện Hoàng Phúc đem nhiều người riêng vào hầu hộ vệ ở điện Hoàng Phúc và các sở Quang Minh (đều sai chế bào cấp cho để đeo). Bọn ấy nhân đó ra vào tự do, các tờ tấu khẩn cấp trong các quân thứ các tỉnh tâu lên có khi để trong điện một đêm, vẫn chưa giao ra, lại trong khi làm lễ điện (cúng vua mới chết) vẫn mặc áo sắc lục cũ, hoặc sai chế ngay các đồ dùng riêng” [60, 306].

Rõ ràng, ngay bước đầu Ưng Chân đã có thái độ phe cánh làm cản trở những tính toán của phe chủ chiến. Vì vậy, Nguyễn Văn Tường nói với Tôn Thất Thuyêt: “Tiên đế bảo vua nối ngôi chưa chắc đương nổi ngôi lớn, nay bắt đầu cử động đã như thế, huống chi là ngày sau ư? Đó là việc lo liệu riêng của chúng ta” [60, 306]. Tôn Thất Thuyết cũng có chung ý nghĩ ấy: “Cứ như lời chiếu thì mưu tính là vì xã tắc, bất đắc dĩ mà làm việc nhỏ như Y Doãn, Hoắc Quang, cũng là chí của tiên đế” [60, 306]. Vì vậy hai người đã thống nhất để phế Ưng Chân.

Ngày 20 / 7 / 1883, lễ đăng quang được tổ chức. “Đến lúc đọc di chiếu, Văn Tường cáo ốm không đứng vào ban chầu, Tôn Thất Thuyết đứng vào bên Trần Tiễn Thành. Trần Tiễn Thành đọc đến đoạn ấy, đọc nhỏ, hàm hồ không rõ. Văn Tường ở bên chái đông làm ra vẻ quái lạ, nói rằng vua nối ngôi sao được dấu bớt di chiếu của tiên đế? Bậy bạ không gì to hơn nữa! Còn có thể nối theo tôn miếu xã tắc được ư?” [60, 306]. Nguyễn Văn Tường [chính xác là Tôn Thất Thuyết - bt.] yêu cầu Nguyễn Trọng Hợp đọc lại di chiếu. Vừa nghe đọc xong, Tôn Thất Thuyết hô quân túc vệ canh gác nghiêm ngặt, sau đó họp hoàng thân. Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết tuyên bố về 3 tội của vua nối ngôi:

- Bỏ bớt tờ di chiếu

- Đương có tang mà mặc áo sặc sỡ

- Dâm đãng và thích ăn chơi

Vì thế xin bỏ Ưng Chân lập vua khác. Ngoài Phan Đình Phùng phản đối [phản biện, với tư cách quan Viện Đô sát - bt.], bị giam vào ngục, còn lại không ai dám trái lời, cùng ký tên tâu xin ý chỉ Từ Dụ. Điều này “Hạnh Thục ca” cũng nói:

“Tự quân chưa chính ngôi trời
Chiếu thư lại cải quên lời sách xưa
Văn Tường, Tôn Thuyết chẳng lơ
Bắt chưng lỗi ấy phiến từ dâng tâu”
[64, 20 ]

Như vậy, những tội mà Ưng Chân mắc phải đều trái với phép thường, nhưng xét cho cùng, đó không phải là lý do để Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết làm việc phế bỏ mà chính là Ưng Chân có tư tưởng cầu hòa, thân Pháp, lập phe cánh, lại trễ nải công việc triều chính. Những việc đó làm cho nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết mới “chẳng lơ" mà bắt lỗi ngay, để dọn đường cho việc tập trung lực lượng kháng chiến. Vì vậy, nếu nói như Phan Trần Chúc là hai người vì sợ Ưng Chân trả thù nên mới làm việc phế lập [14, 9] là vừa không có cơ sở lại mang tính chất chủ quan cá nhân. Việc phế Ưng Chân hoàn toàn vì lý do chính trị trong buổi loạn ly, hai người đã xem nhiệm vụ đối với dân tộc cao hơn nghĩa quân thần. Đó mới là hành động đáng được tôn vinh.

Phế xong Ưng Chân, Nguyễn Văn Tường để ý đến hoàng tử thứ ba vì theo lời Tự Đức: “Một trong ba người con thì Ưng Chân đã nói rồi, Ưng Kỷ người yếu hay ốm, có tâm tật, học chưa thông mà kiêu ngạo, hay bới việc riêng của người khác, cho lạm thẳng, đều không phải là tư chất thuần lương, theo lời phải, sợ bọn người khó lấy lời nói can ngăn được. Duy con út là Ưng Đăng hầu hạ cẩn thận, biết sợ, dạy được, chưa thấy có dấu vết gì” [60, 200]. Rheinart lại cho rằng: “Tự Đức muốn gây thêm uy tín và ảnh hưởng đối với thượng thư mình, làm cho ông này trở thành kẻ thừa hành trung tín theo ý mình muốn, bằng cách làm cho ông ta quan tâm tới việc lên ngôi một ông hoàng nay là anh em rễ [em vợ - bt.] của con ông” [dt., 71, 309]. Điều này rất mâu thuẫn vì Tự Đức không thể vừa lập di chiếu chọn Ưng chân lại vừa có ý cho Nguyễn Văn Tường phế bỏ và lập Ưng Đăng được. Tuy nhiên Ưng Đăng “còn nhỏ tuổi, đường học chưa thông, đương lúc khó khăn chưa chắc đã am hiểu” [60, 201] cho nên Tôn Thất Thuyết không đồng ý chọn Ưng Đăng mà lại chọn hoàng đệ Lãng quốc công. Vì theo Tôn Thất Thuyết thì Lãng quốc công “có tư chất thông minh, vốn quen biết sẵn” [60, 208], lại là người lớn tuổi, đương lúc khó khăn này có thể đảm đương được việc nước. Vì vậy Nguyễn Văn Tường cũng đồng ý. Tìm được người kế vị, hai phụ chính tâu xin ý chỉ Từ Dụ, được bà truyền rằng: “Hiện nay trong thì lo về vua mới mất, ngoài thì lo giặc ngoại xâm, người ít tuổi thì không đương nổi, nhưng thân này già cả làm sao biết được, phần nhiều nhờ Tôn nhân, phụ chính, đình thần cùng nhau họp chọn các hoàng đệ ai nên lập thì lập lên làm vua" [60, 208]. Vì thế, ngày 20 / 7 / 1883, Lãng quốc công Hồng Dật được đưa lên làm vua, lấy niên hiệu là Hiệp Hòa. Việc lập Hiệp Hòa lên làm vua, Đào Trinh Nhất nói: “Trong bụng hai ông Tường, Thuyết bấy giờ đã định lập ông Văn Lãng công... Vì nghe như ông Văn Lãng công đã có vận động với hai ông nọ rồi” [44, 35]. Chi tiết này chúng tôi không thấy ghi ở tài liệu khác và bản thân Đào Trinh Nhất cũng chỉ dùng từ “nghe như...” loáng thoáng và hoài nghi. Nhưng có một số chi tiết làm cơ sở, là ngay lúc đầu, hai phụ chính cũng không thống nhất lập Lãng quốc công và chính Lãng quốc công cũng bất ngờ vì được lập: “Lãng quốc công đứng đậy khóc mà rằng, tôi là con út của tiên đế, tư chất tầm thường thực vạn vạn phần không dám nhận” [60, 209]. Nhưng trước yêu cầu của Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, cuối cùng Lãng quốc công cũng được đưa lên ngôi vua.

Hiệp Hòa mới lên ngôi, một thời gian đã “khiếp sợ” trước uy lực của Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết. Vốn tính bạc nhược cầu an, Hiệp Hòa muốn loại trừ ảnh hưởng của hai phụ chính: “Vua ghét hai người ấy, muốn tước bớt bính quyền đi, cho nên ngoài mặt vẫn hậu đãi, quý trọng mà trong ức chế nhiều”. Vì thế vua điều Tôn Thất Thuyết từ Bộ Binh sang Bộ Lại, các tờ tâu của các bộ đều giao cho Nội các duyệt mà không cho giao cho Văn Tường và Tôn Thất Thuyết. Điều đó gây nên nhiều mâu thuẫn.

Lúc này, việc nước lại càng rối ren, ngày 20 / 8 / 1883 quân pháp đánh chiếm Thuận An. Thái độ bạc nhược của Hiệp Hòa đã nhanh chóng dẫn đến quy phục hòa ước Harmand. Đó là sự phản bội lớn nhất của phái chủ hòa, đứng đầu là vua Hiệp Hòa, đối với dân tộc. Không những thế Hiệp Hòa còn đặc cách sai Tuy Lý vương chuyên đi lại Sứ quán Pháp, bàn việc “hòa nghị” và đem mưu giết hại Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, nhờ Pháp giúp đỡ: “Hiệp Hòa bày tỏ trong mọi lúc tình cảm của ông ta đối với Pháp. Ông đã bí mật phái chú là Tuy Lý vương đến Toà Sứ Pháp để hỏi De Champeaux là trong trường hợp tai biến y có được Pháp giúp đỡ không. De Champeaux trả lời đồng ý và nhiệt thành khuyến khích y chống lại các cận thần. Cuộc viếng thăm này làm triều đình lo ngại, họ làm đủ điều để biết nội dung của câu chuyện nhưng vô ích” [63, 34]. Cao tay hơn Hiệp Hòa lại muốn dùng chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết loại trừ lẫn nhau bằng cách, “triệu Văn Tường vào nói chuyện thì bảo Văn Tường là người trung thành, vẫn rất tin cậy, còn Thuyết rất ngang ngược, dặn Văn Tường tìm cách bỏ Thuyết đi. Thuyết vào chầu, vua cũng nói như thế” [60, 255]. Thật không may cho Hiệp Hòa, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết lại đem chuyện mật báo với nhau; vì thế, họ mới tính kế bỏ Hiệp Hòa lập vua khác.

Đêm 29 / 10 [Quý mùi, TĐ. 36 - bt.] (1883), vào lúc canh hai, sau khi chuẩn bị binh tướng sẵn sàng, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết cho họp tất cả văn võ đình thần tuyên bố tội lỗi của vua Hiệp Hòa: “Lãng quốc công nối ngôi đến nay làm việc phần nhiều trái phép cũ, lại gần gũi người bậy (ngầm chỉ bọn Hồng Sâm, Hồng Phì, Hồng Tu), người đều không phục, nay xin bỏ đi, đưa hoàng tử thứ ba lên nối nghiệp lớn" [60, 257]. Tiếp đó hai người làm tờ tâu, lấy chữ ký các quan, xin ý chỉ Từ Dụ phế truất Hiệp Hòa. Gần sáng, vua mới biết là có biến, “vội vàng thất thố không biết làm thế nào, chỉ phải tự phê tờ di chiếu nhường ngôi, để đợi” [60, 258]. Hiệp Hòa xin được về lại phủ cũ ở Kim Long, Văn Tường và Tôn Thất Thuyết vờ nhận lời nhưng dặn Ông Ích Khiêm và Trương Văn Để chực ở cửa Hiển Nhân đón đường bức tử. Trần Tiễn Thành vốn đã nghỉ việc triều chính nhưng cũng có đi lại với Hiệp Hòa trong âm mưu này, đêm nay lại khước từ yêu cầu của Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, liền bị giết ở nhà riêng. “Đến lúc việc phát ra, ai cũng biết là do hai người ấy sai người giết mà chả ai dám nói ra” [60, 260].

Ngay trong đêm 29 / 10 [Quý mùi - bt.]Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đã cho người đến nhà Dưỡng Thiện ở Khiêm lăng đón hoàng tử thứ ba (Ưng Đăng) rước về lập làm vua. Ưng Đăng nói: “Ta còn bé sợ không làm nổi” [60, 257]. Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết nói: “Tiên đế đã có ý ấy, nhưng chưa kịp làm, nay là mệnh trời vậy, xin nghĩ đến tôn miếu xã tắc là trọng” [60, 257]. Ngày 3 / 11 / 1883 Ưng Đăng chính thức lên ngôi, lấy niên hiệu Kiến Phúc.

Kiến Phúc lên ngôi, trong triều, nhóm chủ chiến đã chiếm ưu thế, tạo nên một lực lượng tập trung cũng như thi hành một số kế hoạch của nhóm chủ chiến. Song đến ngày [10-6 Quý mùi - bt.] (31 / 7 / 1884), vua Kiến Phúc mất đột ngột. Cái chết bất ngờ của vua Kiến Phúc, có nhiều ý kiến cho rằng chính Nguyễn Văn Tường đã đầu độc, vì động cơ cá nhân với bà Học Phi, mẹ nuôi của Kiến Phúc. Tiêu biểu là các ý kiến trong các chuyện kể, giai thoại của các tác giả Nguyễn Đắc Xuân, Tôn Thất Bình, Nguyễn Viết Kế, Phạm Khắc Hòe. Tác giả Phạm Khắc Hòe đã viết : “Kiến Phúc giả vờ ngủ, nghe được câu chuyện trao đổi giữa Nguyễn Văn Tường và bà Học Phi, một lúc kêu lên: “Lành bệnh rồi tao sẽ chặt đầu 3 họ nhà mi”. Văn Tường liền xuống Thái y [viện - bt.] lấy thuốc pha chế sẵn cho nhà vua, nhưng y lại chế thuốc xấu, rồi tự tay mình pha chế một thang thuốc khác đưa lên cho bà Học Phi. Theo lời khuyên của bà Học Phi, Kiến Phúc đã uống thuốc mới ấy và sáng hôm sau thì chết” [24, 91]. Tuy nhiên đó chỉ là giai thoại, “kể chuyện”. Việc Kiến Phúc mất, sách chính sử “Đại Nam thực lục” ghi rõ: “Vua không khỏe, tháng 4 trước, ngọc thể vi hòa, đình thần đã xin vua tĩnh dưỡng và cho người đi cầu đảo ở các linh từ, sau đó đã khỏe nhưng chưa được bình phục như cũ, đến ngày 7 tháng này, ngày kỉ mão, mới ngự Điện Văn minh, chịu lễ chầu mừng, ban thưởng lụa cho các bầy tôi có sai bậc, rồi sau lại không được khỏe, Thái y tiến thuốc không thấy công hiệu, ngày 10 nhâm ngọ, bệnh kịch, giờ thìn hôm ấy vua mất ở chính tẩm Điện Kiền thành” [61, 150]. Điều này “Hạnh Thục ca” cũng ghi lại:

“Nào ngờ nhiều nỗi chẳng may
Trị vì sáu tháng bệnh rày lại mang
Hết lòng khấn vái thuốc thang
Gẫm âu số mệnh đành khôn cải trời
Nương mây chút sớm tếch vời
Năm thân, tháng 6, rụng rời cành xuân”
[64, 30]

Như thế là Kiến Phúc chết do bạo bệnh chứ không phải do Nguyễn Văn Tường đầu độc. Thực tế khi Kiến Phúc còn sống, Kiến Phúc không có bất đồng gì đối với Nguyễn Văn Tường, không những thế Kiến Phúc còn phong cho Nguyễn Văn Tường là Văn minh điện đại học sĩ, thượng thư Bộ Hộ, tước Kỳ Vĩ hầu, lại kiêm cả công việc của Khâm thiên giám, Quốc sử quán tổng tài. Kiến Phúc cũng nhiều lần khen thưởng cho Nguyễn Văn Tường.

Sau cái chết đột ngột của vua Kiến Phúc, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, Phạm Thận Duật truyền bảo di chúc: “Hoàng đế đức mỏng, có em là Ưng Lịch có học có hạnh, hoàng đế như có mất đi, truyền bảo Tôn nhân, phụ chánh nên lấy Ưng Lịch vào nối ngôi để phụng tôn miếu” [61, 151 ]. Sau đó các quan văn võ lại hợp tờ tâu gửi lên Từ Dụ thái hoàng thái hậu, rước Ưng Lịch, chọn ngày làm lễ tấn tôn. Ngày 12 tháng 6 Giáp Thân (22 / 8 dương lịch, 1884)[- bt.], Ưng Lịch lên ngôi lấy niên hiệu là Hàm Nghi; lúc đó mới 13 tuổi.

Nhìn lại thời gian từ sau khi Tự Đức mất đến khi Hàm Nghi lên ngôi là cả một thời gian đầy biến động, cả việc nước lẫn việc triều, chứa đựng trong 2 câu thơ tả thực:

“Nhất giang lưỡng quốc nan phân Thuyết
Tứ nguyệt tam vương triệu bất Tường”


Có nghĩa là:

”Một sông hai nước lời khôn nói
Bốn tháng ba Vua điềm chẳng lành”


Nhưng hai câu này còn có nghĩa là: Một sông (sông Hương) hai nước (Pháp - Việt) do Tôn Thất Thuyết mà ra. Bốn tháng ba vua chỉ bởi một ông Nguyễn Văn Tường. [... do nạn lắm ông Thuyết ... // ấy là điềm báo trước ông Tường không may mắn - bt.].

Như thế cũng hiểu việc phế lập do Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết trong thời gian qua thì trong mắt đại đa số nhân dân, quần thần là điều không tốt. Ngay cả Phan Đình Phùng cũng nói: “Vua nối ngôi nếu có lỗi, chưa thấy can ngăn, đã vội làm như thế” [60, 219]. Đào Trinh Nhất thì viết: “Sau khi vua Tự Đức nằm xuống rồi thì ông Thuyết, ông Tường hùa nhau mà khuấy rối việc nước, hết sức lộng quyền độc ác” [44, 34] .Trong nhân dân cũng có người phản đối ra mặt. Vào thời Hiệp Hòa, “Thực lục” có ghi: “Lúc bấy giờ người xã Long Hồ (Hương Trà) là Nguyễn Văn Thịnh đi đến bờ Vạn Xuân (gần thành, ngoài cửa Tây Nam), nhân say rượu nói liên thanh, nói đến việc tự tiện bỏ vua này lập vua khác, nói nhiều câu bất tốn. Bọn Tường, Thuyết tâu xin đem chém bêu đầu ở chỗ phạm tội, vua không nghe, cho đổi làm trảm giam hậu, (sau Vua bị truất bỏ Văn Thịnh mới được tha)” [60, 219]. Những người nặng đạo lý phong kiến như Nguyễn Nhược Thị thì xem là “quyền thần khinh mạn” [64, 26].

Vậy bản chất của việc phế lập là gì? Chúng ta thấy trong việc phế lập, giết chóc trên đều gắn với Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, vì hai ông là người đứng đầu phe chủ chiến, trong lúc đó Dục Đức, Hiệp Hòa đều có tư tưởng thân Pháp, cầu hòa, loại bỏ lực lượng chủ chiến. Vì vậy, mục đích của việc phế lập là loại bỏ những người theo phái chủ hòa, tạo cơ sở ổn định và nhất trí cao trong nội bộ triều đình Huế, để tiến tới cuộc kháng Pháp lâu dài, và chính việc làm này, mà hai người bị ghép vào tội chuyên quyền độc đoán, thực chất là những hành động đầy quyết đoán trong thời buổi loạn ly. Vì thế, những cái mà người đời lên án lại chính là hành động có động cơ vì dân vì nước. “Một Dục Đức bất tài hiếu dâm, lại thích quan hệ với người Pháp, một Hiệp Hòa chủ trương thỏa hiệp với giặc, muốn cắt bỏ quyền lực của phe chủ chiến, một Trần Tiễn Thành chỉ biết nói đến chữ “hòa”, chữ “bại” và muốn dẹp những gì chống đối Pháp, một Tuy Lý vương Miên Trinh thì chuyên câu kết với kẻ thù, một Gia Hưng vương Hồng Hưu tính lập ngai vàng dựa vào bàn tay của địch... Tất cả những người ấy đều đi ngược lại ý chí nguyện vọng của dân tộc, nhưng có thế lực trong triều và được người Pháp hậu thuẫn” [68, 142]. Vì vậy, nếu không kịp ra tay một cách thật quyết đoán thì không chỉ nguy cho nhóm chủ chiến mà đất nước nhanh chóng rơi vào tay giặc. Cho nên, những hành động đó là hành động vì dân vì nước, cần phải được khen ngợi và tôn vinh.

Tóm lại, từ việc tìm hiểu nguyên nhân của việc phế lập, có thể thấy tính chất tích cực của nó, nhằm tìm tới một giải pháp cứu nước bằng vũ lực trong những điều kiện có thể. Hành động đó luôn gắn với hai phụ chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết.

Xem tiếp phần 2



17 : 37, thứ bảy (chủ nhật cũ), ngày 19-11 HB6 (2006),
phần 1 đã được chỉnh sửa lỗi gõ phím lần thứ nhất
.


11 : 28, thứ tư (thứ năm cũ), ngày 23-11 HB6 (2006),
phần 1 đã được chỉnh sửa lỗi gõ phím lần thứ hai
.
TXA.

_______________

[*] Ông được sinh ra đời vào năm Minh Mạng thứ năm, Giáp thân (1824), tháng tám, ngày 22, [khoảng từ giờ tuất, 19 – 21 giờ, đến cuối giờ thìn, 7 - 9 giờ ? - bt.]

_______________

Bổ sung theo đúng nguyên tắc luận văn tốt nghiệp:
Giảng viên hướng dẫn:
1. PGS. TS. Đỗ Bang
2. Thạc sĩ Nguyễn Quang Trung Tiến
(căn cứ vào bản Lê Tiến Công gửi qua Yahoo Mail, ngày 16-3-2005).

21-11 HB6 (2006).
23-11 HB6 (2006).

Không có nhận xét nào: